30 April 2013

Đệ II VNCH thành một chế độ " Diệm không Diệm " !



Ngày 30.04.1975 Miền Nam Việt Nam mất vào tay Cộng Sản Bắc Việt
tại vì
Ca Tô Giáo La Mã và bè lũ tàn dư đảng Cần Lao Công Giáo giàn dựng:

Diệm không Diệm



Phan vân Khai
 
LGT - Đệ nhị Cộng hòa thực chất là một chế độ "Diệm Không Diệm" (cụm từ do Robert Shaplen đặt ra), hàm ý ông Diệm đã "đi rồi" nhưng bầy tôi của ông và lực lượng Cần Lao "ác ôn" (chữ của đồng bào miền Trung) đã thành công trong việc trở lại khuynh loát và khống chế để lãnh đạo chính trường miền Nam từ năm 1966-1975.
 
Vì vậy mà khi gọi "miền Nam được lãnh đạo bởi 2 ông Tổng thống Công giáo" là không sai. Và "miền Nam mất vào tay Cộng sản vì Công giáo" là cũng đúng luôn, vì chính trường và chiến trường miền Nam trong 7 năm cuối cùng, kể từ năm 1966, là do thủ hạ Công giáo cũ của ông Diệm ở "thượng tầng lãnh đạo" thao túng.

Trong một chế độ quân phiệt, lại đang thời chiến, quyền hành đương nhiên tập trung vào vị nguyên thủ áo kaki, vì vậy mà căn cước của chế độ Đệ nhị Cọng hòa thật sự nằm ở Dinh Tổng thống (báo chí gọi là "Phủ Đầu Rồng" để đối với "Dinh Thái Thú" là Tòa Đại sứ Mỹ) chứ không phải trên bản Hiến Pháp hoặc các định chế dân cử.

Ai ngồi ở Dinh Tổng thống ? Ai là cận thần đầy quyền lực ra vào Dinh Tổng thống ? Ngoài ông Tổng thống Công giáo "đạo theo" Nguyễn văn Thiệu, bài viết nầy nhằm điểm mặt 10 nhân vật Công giáo khác trong Thượng tầng lãnh đạo của Đệ nhị Cọng hòa, đồng thời cũng nhận diện những cấp chỉ huy quân đội Công giáo cao cấp nào đã thao túng Quân lực VNCH.

Miền Nam kiệt sức vì độc tài, băng hoại vì tham nhũng, khủng hoãng vì mất chính nghĩa, và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ra đời ngày 20-12-1960 tại Tây Ninh… Thế mà ông Diệm lại đẩy cao chính sách kỳ thị Phật giáo, đàn áp các đảng phái Quốc gia, chia rẽ Quân đội thành Cần lao và phi-Cần lao, dung dưởng cho gia đình và thủ hạ tham nhũng … đến nỗi 18 nhân sĩ (mà hầu hết là cựu đồng chí và/hoặc đã từng hợp tác với ông Diệm) phải lên tiếng cảnh cáo ông về tình trạng nguy ngập của miền Nam (Tuyên Ngôn "Caravelle" của tập hợp Tự Do Tiến Bộ ngày 26/4/1960). Cho nên chỉ không đến 10 tháng sau khi Việt Cọng ra đời, ngày 10-10-1961, tình hình an ninh quốc gia đã nguy ngập đến nỗi chính ông Diệm chứ không ai khác đã phải tuyên bố tình trạng khẩn cấp trên toàn lãnh thổ VNCH (sắc lệnh 209-TTP). Rồi năm tháng sau đó, ngày 31-3-1962, không cứu vãn được tình hình nguy khốn, cũng chính ông Diệm chứ không phải ai khác đã phải gửi thông điệp cho 92 quốc gia trên thế giới yêu cầu ủng hộ Việt Nam Cộng Hòa chống xâm lăng Cộng Sản [Đoàn Thêm, Những ngày chưa quên, Đại Nam 1969].  Rõ ràng ông Diệm đã hoàn toàn thất bại trong việc đoàn kết dân tộc để cùng Mỹ chống Cọng.  

Thế rồi để cứu vản miền Nam, anh em ông Diệm làm gì ? Thay vì dân chủ hóa bộ máy cầm quyền để tăng hiệu năng chống Cọng, gia đình ông cứ tiếp tục cách cầm quyền độc tài càng lúc càng tàn bạo của ông đến nỗi Quân đội lại phải mạnh mẽ phản ứng lần nữa (vụ ném bom Dinh Độc Lập của 2 phi công Quốc và Cữ ngày 27-2-1962), Phật giáo phải kêu gọi bình đẳng tôn giáo (Nguyện vọng 5 điểm của Phật tử Huế ngày 9-5-1963), đảng phái quốc gia đã phải tố cáo ông quyết liệt hơn (Nhất Linh Nguyễn Trường Tam tử tử ngày 7-7-1963).

Thất bại thê thảm của trận Ấp Bắc (đầu năm 1963, cách Sài Gòn 65 km) đã là một đòn quân sự - chính trị chí tử đánh vào khả năng lãnh đạo của chính phủ Diệm trước dân chúng trong nước và dư luận thế giới. Cuộc đàn áp các chùa Phật giáo trên toàn quốc (Chiến dịch Nước Lũ đêm 20-8-1963) đã là một đòn chính tri-ngoại giao chí tử khác đánh vào thế chính thống và uy tín ít oi còn sót lại của tập đoàn lãnh đạo Dinh Gia Long. Giáo hoàng Paul VI và Vatican lên tiếng tách rời (disassociation) khỏi chính phủ Diệm, diễn đàn Liên Hiệp quốc và một số quốc gia đồng minh công khai tố cáo chính sách kỳ thị tôn giáo của ông Diệm, chính giới và công luận Mỹ đặt vần đề hiệu năng viện trợ Mỹ để miền Nam chống Cọng, một bộ phận trong chính quyền Kennedy tạo áp lực để ông Diệm thay đổi chính sách và nhân sự lãnh đạo (đặc biệt với ông bà Cố vấn chính trị Nhu) …

Để tháo gở và vượt thoát được cơn khủng hoảng vừa đối nội vừa đối ngoại đó, anh em ông Diệm đã chủ quan tính sai một nước cờ nên đã lấy một quyết định liều lĩnh, dại dột và phản quốc nhất trong cuộc đời chính trị của họ: Tìm cách thỏa hiệp với Hà Nội để giải tỏa áp lực của Mỹ và của đối lập chính trị tại miền Nam. Quyết định nầy liều lĩnh và dại dột vì ba lý do:

    1.Mỹ đã "nặn" ra ông Diệm ở Washington, rồi "bồng" ông về nước. Sau đó, lại đổ kinh viện, quân viện và uy tín quốcđể khai sinh và nuôi dưỡng nền Đệ Nhất Cọng hòa trong chiến lược xây dựng một tiền đồn chống Cọng cho Thế giới Tự do, thì làm sao họ để cho ông thỏa hiệp với Cọng sản, phá vở vai trò "tiền đồn" trong cuộc chiến tranh lạnh được. Sau nầy, khi ông bị giết, nhà văn Doãn Quốc Sỹ đã kết luận thật đầy đủ: "Bảo là người Mỹ đã giết Diệm. Không!Diệm đã chết trong lòng dân tộctừ lâu. Mỹ chỉ đến lượm xác sống của y."  [Người Việt Đáng Yêu, (Lời Mở Đầu) Nhà xuất bảnSáng Tạo, Sài Gòn, 1965].

    2.Ông Hồ Chí Minh và Đảng Cọng sản Việt Nam đã nằm gai nếm mật, hy sinh bao nhiêu xương máu trong gần 30 năm để làmhai nhiệm vụ đan bện với nhau:Dành độc lập cho dân tộc, và thiết lập chế độ Cọng sản tại Việt Nam cho Quốc tế Cọng sản. Năm 1954, họ đã thành công được một nữa: Đuổi thực dân Tây ra khỏi nước (cho dân tộc) và quản lý miền Bắc (cho Cọng sản Quốc tế). Vậy thì làm sao họ có thể thỏa hiệp với kẻ thù "Mỹ-Diệm" được. Cọng sản quốc tế có cho họ làm không ? Làm sao họ biện minh được với Quân dân và Đảng viên ở miền Bắc ? Họ biết ông Diệm đang mâu thuẫn với Mỹ và đang bị nhân dân miền Nam chống đối nên chỉmưu mẹo lợi dụng động thái xin thỏa hiệp của chính phủ Diệmđểlàm suy yếthế đồng minh Mỹ-Việtmà thôi (Đọc thêmWar of the Vanquishedcủa Mieczilaw Maneli)

    3.Nhưng quan trọng hơn hết là khi thỏa hiệp với Hà Nội, hai ông Diệm-Nhu đãphản bội lại Hiến phápVNCH 1956(Theo Điều 7 thì "những hành vi có mục đích phổ biến hoặc thực hiện một cách trực tiếp hay gián tiếp chủ nghĩa cộng sản dưới mọi hình thái đều trái với nguyên tắc ghi trong Hiến pháp"),đãvi phạm luật 10/59(ban hành tháng 5/1959) mà ông Diệm đãdựa vào đó để đàn áp những chiến sĩ quốc giacũng chống Cọngnhưng đối lập với ông. Thỏa hiệp với chính phủ Hồ Chí Minh, hai anh em ông Diệm-Nhu cònphản bội gần 800 ngàn đồng bào Công giáo di cưtừ miền Bắc vào Nam để trốn Cọng sản, và bao nhiêuchiến sĩ Quân lực VNCH đã hy sinhxương máuđể bảo vệ miền Nam.

Tưởng Mỹ không bao giờ dám từ bỏ mình vì đã can dự quá sâu vào miền Nam, tưởng chính phủ Hà Nội đánh giá cao động thái thỏa hiệp, tưởng đã khuất phục được quân dân miền Nam sau 9 năm bạo trị, …. Gia đình ông Diệm (đúng ra lúc đó ông Diệm chỉ là một bù nhìn bất lực, chính hai "tổng thống" Ngô Đình Nhu và Trần Lệ Xuân mới là kiến trúc sư để thiết kế và) đi "canh bạc chính trị" nguy hiểm và ngu dại nhất đời mình. Nhưng "canh bạc" đó không lừa được kẻ thù, không dấu được đồng minh, và không đánh giá đúng được phản ứng của quân dân miền Nam nên, cuối cùng, anh em ông đã phải đền tội trước lịch sữ và dân tộc. Ngày 1-11-1963, chế độ Đệ nhất Cọng hòa cáo chung.

Trong ba năm sau đó, chính trường miền Nam xáo trộn vì nhiều lý do. Nhưng chủ yếu là vì (i) Như một quy luật lịch sử, chế độ trước càng độc tài áp bức thì chế độ thừa kế phải mất một thời gian rất lâu mới xây dựng và ổn định được sinh hoạt chính trị; (ii) Các tướng lãnh, chính trị gia và các lực xã hội dân sự sau ông Diệm đã phải đối mặt với và tỏ ra bất lực trước một nền dân chủ hỗn loạn vì phôi thai; (iii) Chính phủ Mỹ và Hà Nội quyết định can dự mạnh mẽ hơn cả trong chính trường lẫn trên chiến trường miền Nam. Vì thế mà xáo trộn.

Cũng trong ba năm sau đó, cho đến năm 1966, lực lượng tàn dư của chế độ Diệm đã lợi dụng tình trạng xáo trộn của miền Nam để trở lại chính trường với hai đặc trưng: Lấy Giáo hội Công giáo Việt Nam làm hậu thuẫn và dùng nhóm tàn dư Cần Lao cũ làm lực lượng thao túng chính quyền và xã hội mà cao điểm là sự ra đời của Đệ nhị Cọng hòa. Và họ đã thành công: Hiến pháp 4/1967 tạo cơ sở hình thành chính phủ dân sự đầu tiên để thành lập Đệ nhị Cọng hòa do con chiên Martino Nguyễn Văn Thiệu làm Tổng thống ngày 1-11-1967.

Vậy thì chính nền Đệ nhị Cọng hòa với bản chất Cần lao Công giáo đó, mang hỗn danh là "Diệm không Diệm", đã tồn tại và chịu trách nhiệm về sự sụp đổ của miền Nam vào mùa Xuân năm 1975 ! Nhóm Công giáo hoài Ngô, tàn dư của "Cần Lao ác ôn" ở hải ngoại, đang nỗ lực đánh tráo sự thật nầy để chạy tội là chuyện đương nhiên. Nhưng ai viết lịch sử lương thiện thì xin hãy nhớ điều nầy: Chế độ Nguyễn Văn Thiệu đích thực là một chế độ "Diệm không Diệm".   

CHẾ ĐỘ "DIỆM KHÔNG DIỆM"
Từ năm 1964, lợi dụng cuộc khủng hoảng chính trị gây ra do một chuổi các cuộc chỉnh lý và những vận động "dân sự hóa" chính phủ, khối Công giáo bắt đầu hăng hái hoạt động chống đối Phật giáo, chống đối sinh viên, chống đối các Tướng lãnh và chống đối các đảng phái, góp sức gây ra nhiều xáo trộn bất ổn cho đến khi họ lật được chính quyền dân sự của hai ông Phan Khắc Sửu và Phan Huy Quát (thân Phật giáo), tạo lý do và cơ hội đưa dần con chiên Nguyễn Văn Thiệu lên làm Tổng thống, dù con chiên đó đã cầm quân đánh cho con chiên Ngô Đình Diệm phải trốn khỏi dinh Gia Long để về trú ẫn tại nhà chú ba Tàu Mã Tuyên ở trong Chợ Lớn hầu chuẩn bị theo kế hoạch của ông Nhu bắt tay với Hà Nội ... để chống Mỹ !

Trong tình hình chính trị xáo trộn lúc đó, ông Nguyễn Văn Thiệu tuy đã nắm được chính quyền nhưng tự biết mình vừa không đủ uy tín vừa không có hậu thuẫn, đã thế còn bị ông Nguyễn Cao Kỳ thù nghịch và chống phá, nên phải thỏa hiệp và "đầu quân" khối Công giáo (trong đó đã có Công giáo Đại Việt) để có hậu thuẫn chính trị hầu đương đầu với các lực lượng đối lập khác.
Sự thỏa hiệp tiện lợi (a convenient compromise) giữa một Nguyễn Văn Thiệu thực tiển (pragmatist)  và khối Công giáo nhiều tham vọng, từ đó, đã biến chế độ Đệ Nhị Cộng Hòa thành ra một chế độ Diệm không Diệm.

Năm 1966, nền Đệ Nhị Cộng Hòa ra đời. Để nhận diện chế độ này, ta cần điểm mặt thành phần nhân sự lãnh đạo ở thượng tầng cai trị, và cái thế lực hậu thuẫn chế độ đó ở hạ tầng quần chúng.

CỐ VẤN CHIẾN LƯỢC  - Trong một chế độ mà các quyết định sinh tử liên hệ đến vận mệnh quốc gia đều tập trung vào một người chứ không phải vào những Hội Đồng An Ninh, Hội Đồng Nội Các hay Quốc hội, thì vai trò Cố vấn trong những buổi họp kín giới hạn mới là vai trò mấu chốt.

Cố vấn Chính trị và là vị Quân sư Tối cao của ông Thiệu một cách không chính thức trong dinh Độc Lập là Linh mục Cao Văn Luận, nguyên là một công thần của nhà Ngô. Linh mục Luận, dù chỉ mới có bằng cữ nhân tại Pháp, được anh em ông Diệm cho làm Viện trưởng Viện Đại học Huế nhưng đến năm 1963, trước cao trào đấu tranh dũng mãnh và đầy chính nghĩa của Phật giáo, sinh viên và trí thức miền Nam, LM Luận đã phải miễn cưỡng gia nhập theo và ủng hộ Phật giáo nên sau đó bị ông Diệm cất chức Viện trưởng. Mấy năm sau, khi thế lực Công giáo được phục hồi, ông Cao Văn Luận đã bị khối Công giáo chỉ trích thái độ chống chính quyền Diệm trước kia nên bèn tìm cách liên hệ để tiến thân với ông Thiệu và cuối cùng được ông Thiệu tín nhiệm. Với tư cách cựu Viện trưởng Viện Đại học cũ, lại nhờ đi ngoại quốc nhiều nên ông LM Luận được ông Thiệu giao cho nhiệm vụ đặc biệt là giao thiệp, liên lạc và lobby các chính khách Hoa Kỳ, và đặc biệt với Tòa Thánh La Mã. Đã thất bại vì trong quá khứ không được ông Diệm mời làm cố vấn (vì ông Cha Ngô Đình Thục quyền huynh thế phụ chặn đường tiến thân), ông cha Luận nhiều tham vọng nầy (xem « Đầu hàng» của Hồ Sỹ Khuê), từ nay, thõa sức  "cố vấn" cho ông Tổng Thống con chiên ngoan đạo của nền Đệ nhị Cọng hòa.

Hai vị "Cố vấn" cỉ đạo: LM Cao Văn Luận và GM Nguyễn Văn Thuận

Vị Giám mục cố vấn thứ nhì là Giám mục Francois-Xavier Nguyễn Văn Thuận (gọi Tổng thống Diệm bằng cậu ruột và cai quản giáo phận Nha Trang). Ông là vị giám mục trẻ tuổi nhất trong hàng giáo phẩm cao cấp của Giáo hội Công giáo Việt Nam. Sự sụp đổ của chế độ và cái chết của ba người cậu ruột đã làm cho ông trở nên cứng rắn, quyết liệt hơn trong tham vọng xây dựng khối Công giáo trở thành một lực lượng chính trị để nắm lấy chính quyền tại miền Nam và biến miền Nam thành một người con gái hiếu thảo của Giáo hội La Mã tại Á châu (fille ainée de l'Église en Asie) hầu một mặt trả mối thù gia tộc, và mặt khác thì hoàn tất sách lược của các ông cậu trước kia. Những tổ chức Công giáo quốc tế còn tiếc thương gia đình họ Ngô đã ngầm giúp Giám mục Thuận sớm trở thành nhân vật quan trọng của Giáo hội Việt Nam để ông có uy thế và phương tiện hoạt động chính trị. Vì thế, dù là một Giám mục còn trẻ tuổi, ông vẫn được giao phó trọng trách phụ tá Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình. Ông còn được Công giáo quốc tế giao chức Tổng thủ quỹ Caritas, một tổ chức từ thiện tiền rừng bạc biển của Công giáo Hoa Kỳ.

Hầu như Giám mục Thuận không vào Dinh Tổng thống bao giờ nhưng thông qua những chức sắc và tín đồ Công giáo trong chính quyền, ông đã ảnh hưởng nhiều lên các quyết định chính trị quan trọng đến nỗi năm 1974, đích thân ông Thiệu, với tư cách Tổng thống một quốc gia, đã vận động với Vatican để cha Thuận làm Tổng Giám mục điạ phận Sài Gòn vào giữa lúc tình hình miền Nam đang thật sự khủng hoảng (nhưng vận động không thành vì đi ngược với khuynh hướng chủ hòa thân Hà Nội của Đức Giáo hoàng Phaolô VI đang muốn "Phải chấm dứt các cuộc oanh tạc trên lãnh thổ Bắc Việt và đồng thời cũng phải chấm dứt những cuộc xâm nhập vũ khí và vật liệu chiến tranh vào miền Nam.")

Ngoài ra còn có Linh mục Nhuận và nhóm Nguyễn Đức Xích phụ trách việc theo dõi, dò xét các đảng phái, tôn giáo và những thành phần đối lập rồi báo cáo thẳng cho Tướng Đặng Văn Quang. Linh mục Nhuận là Cha sở thuộc họ đạo Phú Nhuận, sau đó được hai ông Thiệu và Quang đền bù công lao bằng cách giúp tiền bạc để xây cất một giáo đường đồ sộ tân kỳ tại Phú Nhuận, đối diện với ngôi chùa Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ của Cao Đài gần cổng số 4 Bộ Tổng Tham Mưu. Còn Thiếu tá con chiên Nguyễn Đức Xích được hai ông Thiệu và Quang can thiệp cho giữ chức "giám sát" trong cơ quan Giám Sát Viện, phụ tá bí mật cho ông Ngô Xuân Tích là bà con của ông Thiệu giữ chức Chủ tịch Viện giám sát. Người phụ tá phụ trách miền Trung cho linh mục Nhuận có tên là Huỳnh Bút vốn là một cán bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng từng được ông Ngô Đình Cẩn mua chuộc trước kia.

Cuối cùng, một linh mục khác mà bà con Nguyễn Phước tộc hầu như ai cũng biết là Linh mục Bửu Dưỡng, vị cố vấn bí mật đặc trách Văn hóa Giáo dục cho chính quyền Thiệu. Bửu Dưỡng là người đã từng cùng với ông Ngô Đình Nhu khai sinh ra cái quái thai "Chủ Nghĩa Nhân Vị Duy Linh" và yểm trợ cho chế độ Diệm tiến hành sách lược "Công giáo hóa miền Nam". Linh mục Bửu Dưỡng đã tự nguyện đến hợp tác với con chiên Nguyễn Văn Thiệu chỉ một ý đồ là phục hồi lại các nhân sự của chế độ cũ để nắm lấy guồng máy chính quyền mà trả thù Phật giáo. Linh mục Bửu Dưỡng đã được ông Thiệu và Hoa Kỳ giúp đỡ thiết lập Viện Đại Học Minh Đức để cùng với trường Đại học Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt của ông Ngô Đình Thục trước kia làm công việc "trồng người" cho chế độ Công giáo trị mới.

CỐ VẤN HÀNH PHÁP  ... Trong dinh Độc Lập có Cố vấn An ninh Tình báo kiêm Cố vấn Quân sự là ông Đặng Văn Quang, người con nuôi tinh thần của Bà Ấm, chị ruột Tổng thống Diệm và là thân mẫu của Giám mục Nguyễn Văn Thuận. Ngoài những chức vụ chính thức ông Quang còn có những nhiệm vụ bí mật là thiết lập kế hoạch và phối hợp công tác của các cơ quan chính quyền để triệt phá các thành phần đối lập với chế độ mà đối tượng số một là Phật giáo. Ông Quang cũng là người điều động một hệ thống tổ chức buôn thuốc phiện lậu để chia lời với ông Thiệu (như ông Nhu trước kia buôn thuốc phiện lậu) để làm giàu mà Tiến sĩ Alfred McCoy đã nói rõ trong The Politics of Heroine in Southeast Asia.

Cố vấn phụ trách Kinh tài là dược sĩ Nguyễn Cao Thăng, Giám đốc hàng thuốc O.P.V., người Công giáo Phú Cam, từng làm Dân biểu gia nô và Kinh tài cho anh em ông Diệm. Nhiệm vụ chính trị của ông Thăng là xây dựng cho ông Thiệu một Quốc hội bù nhìn mà đa số phải là người Công giáo. Chính ông Thăng thay ông Thiệu để giao thiệp, mua chuộc, hướng dẫn và kiểm soát Quốc hội để điều hướng định chế gọi là "dân cử" này ủng hộ đường lối của ông Thiệu. Khi ông Thăng bất thình lình chết vì bệnh ung thư thì phụ tá của ông Thăng trong dinh Độc Lập là ông Nguyễn Văn Ngân lên thay thế. Ông Ngân là người Công giáo Nghệ Tĩnh, bà con của Linh mục Cao Văn Luận. Đúng như giáo sư Nguyễn Khắc Ngữ đã nói trong tác phẩm Những Ngày Cuối Cùng của VNCH, hết Thăng rồi đến Ngân, họ chính là những người nắm giữ tay hòm chìa khóa của quỹ chi tiền cho các Dân biểu, Nghị sĩ và các lực lượng thân chính.

Cố vấn An ninh / Tình báo Đặng Văn Quang và Huỳnh Văn Trọng

Cố vấn Tình báo chiến lược là ông Huỳnh Văn Trọng, tốt nghiệp đại học Luật và là một tín đồ Công giáo xuất thân từ một dòng tu ở Hồng Kông. Dưới thời chính phủ Nguyễn Phan Long (1950), ông Trọng giữ chức Tổng Thư ký chính phủ và vẫn tiếp tục là nhân viên cao cấp dưới thời chính phủ Ngô Đình Diệm. Khi chính phủ Diệm tiến hành chính sách tiêu diệt đảng phái, ông Trọng trở thành đối tượng của chính sách nầy nên phải lánh nạn trong dòng Chúa Cứu Thế. Sau đó, khi tình hình bớt nguy hiểm, ông Trọng tái xuất hiện nhưng chỉ âm thầm dạy Việt ngữ và Pháp ngữ cho nhân viên Sứ quán Mỹ tại Sài Gòn. Chính trong thời gian nầy, nhân viên cao cấp của Hà Nội là ông Vũ Ngọc Nhạ đã phát hiện ra ông Trọng và kết nạp vào Cụm tình báo A-22. Sau cuộc bầu cử Tổng thống năm 1967, ông Vũ Ngọc Nhạ định vận động với ông Nguyễn Văn Thiệu cho ông Trọng giữ chức Thủ tướng, nhưng vì điều kiện chính trị phức tạp lúc đó nên ông Trọng chỉ đóng vai Cố vấn tình báo chiến lược về những vấn đề chính trị và ngoại giao trong Phủ Tổng thống. Nhưng rồi A-22 bị phát giác, cả hai ông Nhạ lẫn Trọng đều bị bắt và bị Tòa án Quân sự Đặc biệt kết án đày ra Côn đảo.

Cố vấn đặc biệt của Tổng thống Diệm, rồi Tổng trưởng Kế hoạch và Phát triển Kinh tế trong mấy năm cuối của Việt Nam Cọng Hòa là con chiên mộ đạo Gregory Nguyễn Tiến Hưng, người trước khi quyết định hợp tác với ông Thiệu đã phải đi thỉnh ý một Linh mục (xem "Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập").

Năm người cố vấn các lãnh vực Quân sự, Chính trị, Kinh tài, Kinh tế và Tình báo quay quanh và ảnh hưởng ông Thiệu mạnh nhất, tuy xuất thân từ những môi trường khác nhau, sinh hoạt trong những lãnh vực khác nhau, tiến thân từ những trình độ khác nhau, nhưng lại có một yếu tố chung rất nổi bật, đó là tôn giáo của họ, đó là cái liên hệ ruột thịt và "đức vâng lời"  vào Giáo hội Công giáo Việt Nam, mà nhờ đó họ đã bước lên được vị trí gần nhất chung quanh ông Tổng thống Công giáo thứ nhì của nước Việt Nam Cộng Hòa.

Nói tóm lại, MƯỜI nhân vật Công giáo kể trên (mà đến bốn đã là giám mục và linh mục) đã thực sự là những người quần tụ chung quanh vị Tổng thống cũng Công giáo để tạo ra cái đầu não nắm lấy vận mệnh miền Nam. Họ bám lấy ông Thiệu mà sống và phát triển cũng như ông Thiệu bám lấy họ mà tồn tại và thi thố quyền lực.

Ngoài ra, Bộ trưởng Đặc Trách Liên Lạc Quốc Hội nằm trong tay ông Cao Văn Tường, một người trung thành với nhà Ngô đã từng được ông Ngô Đình Nhu cho làm Đệ Nhất Phó Chủ tịch Quốc Hội thời Đệ Nhất Cộng Hòa.

Bộ Ngoại Giao thì do các ông Trần Chánh Thành, Trần Văn Lắm hay Vương Văn Bắc thay phiên nhau cầm đầu mà ông Thành và ông Lắm ai cũng biết là thuộc hạ nhà Ngô cũ.

Bộ Thông Tin dĩ nhiên phải để cho ông Ngô Khắc Tỉnh, học trò cũ của Giám mục Ngô Đình Thục và là cựu Dân biểu gia nô thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Để ông Tỉnh có đủ uy tín đối phó với lớp trí thức khoa bảng, ông Thiệu cử một phụ tá cũng khoa bảng giúp Tỉnh và dĩ nhiên vị phụ tá này phải là một tín đồ Công giáo gốc Huế, thân tín với chế độ cũ: ông Bùi Xuân Bào.

Chính phủ "Tam Đầu Chế" Thiệu-Kỳ-Khiêm
LẬP PHÁP: Ở Thượng Viện, Nguyễn Văn Thiệu luôn luôn có 3 hay 4 liên danh Công giáo làm tay sai: Liên danh Nguyễn Văn Huyền, liên danh Huỳnh Văn Cao, liên danh Nguyễn Gia Hiến (anh của ông Nguyễn Gia Kiểng thuộc nhóm Thông Luận) và liên danh Trần Văn Lắm gồm hầu hết là người Công giáo hay là người của chế độ cũ nổi tiếng trung thành với ông Diệm. Chức Chủ tịch Thượng viện suốt thời gian ông Thiệu cầm quyền nằm trong tay hai nhân vật Công giáo là các ông Nguyễn Văn Huyền và Trần Văn Lắm. Đệ Nhất Phó Chủ tịch là ông Phạm Như Phiên, một vị cựu quan lại tay chân cũ của Tổng thống Diệm. Cũng có thời ông Hoàng Xuân Tửu (một người Công giáo Quảng Trị thuộc đảng Đại Việt Hà Thúc Ký) được bầu vào chức Đệ Nhị Phó Chủ tịch, nhưng đến năm 1973-74, ông Tửu theo đường lối của Đảng quay ra chống đối Thiệu trong Phong Trào Chống Tham Nhũng của Cha Trần Hữu Thanh.

Còn ở Hạ Viện, người Công giáo (nhất là người Công giáo di cư và nhân sự cũ của chế độ Diệm) chiếm đa số, đặc biệt là khối Độc Lập 19 người gồm toàn thành phần Cần Lao Công Giáo do nhóm các ông Nguyễn Quang Luyện, Vũ Văn Mầu, Phạm Hữu Giáo cầm đầu. Khối này đã giành lấy những chức chủ tịch của các Uỷ Ban quan trọng để chi phối Hạ Viện. Trong Hạ Viện còn có dân biểu Đinh Xuân Minh (có em gái lấy Nghị sĩ Nguyễn Văn Chức). Ông Đinh Xuân Minh vốn là dân biểu của chế độ Diệm và là bác sĩ riêng của cố Tổng thống Diệm.

Chủ tịch Hạ viện trong nhiệm kỳ đầu là ông Nguyễn Bá Lương. Ông không phải là người Công giáo nhưng được hai ông Thiệu và Thăng mua chuộc các Dân biểu khác để sắp đặt bầu vào chức Chủ tịch Hạ viện vì ông là người "ba phải", dễ thỏa hiệp. Vả lại, lúc mới cầm quyền, ông Thiệu thấy rằng Tổng thống đã là Công giáo, Chủ tịch Thượng viện đã là Công giáo nên ông Thiệu đặt ông Nguyễn Bá Lương đứng đầu Hạ viện để có thể làm bớt lộ liễu màu sắc Công giáo của chính quyền. Đây cũng chỉ là một thủ đoạn nối dài của thời Đệ Nhất Cộng Hòa với một ông Nguyễn Ngọc Thơ (không Công giáo) được anh em ông Diệm cố tình cho giữ chức vụ Phó Tổng thống để làm nhẹ cái thực tế rõ ràng là Tổng thống Công giáo, các ông Chủ tịch Quốc hội thay phiên nhau như Trần Văn Lắm, Phạm Văn Nhu, Trương Vĩnh Lễ đều là Công giáo.

Với một Quốc hội nằm trong tay đa số người Công giáo và người của chế độ Diệm đang cấu kết với ông Thiệu như thế, tất cả các dư luật thất nhân tâm như Luật Báo Chí, Luật Uỷ Quyền, việc hợp hiến hóa cuộc bầu cử Tổng thống độc diễn... đều đã được dễ dàng và mau chóng thông qua. Đó là không nói đến những hồ sơ tố cáo tham nhũng, lộng quyền bị Quốc hội dẹp bỏ trước sự công phẫn của nhân dân và chỉ trích gay gắt của báo chí như các nhật báo Bút Thép, Điện Tín, Dân Tộc...

Ngoài các cơ quan công quyền được "Công giáo hóa" dần dần, ông Thiệu còn vói tay nắm lấy Tổng Liên Đoàn Lao Công, một sản phẩm của ông Nhu để lại hầu làm hậu thuẫn cho Thiệu. Tổng Liên Đoàn Lao Công vẫn do ông Trần Quốc Bửu (nguyên ủy viên Trung ương Cần lao) giữ chức chủ tịch với một vị phụ tá là ông Nguyễn Bửu, người Công giáo Quảng Bình. Dưới thời ông Thiệu, chính ông Nguyễn Bửu mới là người thật sự điều hành Tổng Liên Đoàn vì ông đã được ông Thiệu giao phó cho nhiệm vụ giao thiệp với các nghiệp đoàn Hoa Kỳ và bí mật liên hệ với cơ quan CIA Mỹ.

QUÂN ĐỘI - Tuy nhiên, ông Thiệu biết rằng Lập pháp, Hành pháp hay Tư pháp trong một miền Nam chiến tranh và trong một chế độ làm đồng minh với Mỹ vẫn chưa đủ để củng cố quyền lực mà chính Quân đội mới là thành tố chính quyết định sức mạnh của kẻ cầm quyền. Hơn ai hết, ông Thiệu biết rõ vai trò của quân đội trong những biến cố chính trị, cũng hơn ai hết ông Thiệu biết rõ sự cần thiết phải Công giáo hóa quân đội mới hoàn tất được cái khế ước với lực lượng Công giáo đang hung hăng sống dậy tại miền Nam.

Trước hết, ông Thiệu dàn xếp cho Tướng Cao Văn Viên giữ chức Tổng Tham mưu trưởng và người thân tín của Viên là ông Đồng Văn Khuyên thì vừa là Tổng Tham mưu phó vừa là Tổng Cục trưởng Tổng Cục Tiếp Vận. Ông Viên là thành phần trung thành tuyệt đối với Tổng thống Diệm, vợ ông là tay chân đắc lực của bà Nhu trong Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới cũ. Ông Viên đã từng được ông Diệm cử giữ chức Tư lệnh Nhảy Dù thay thế Đại tá Nguyễn Chánh Thi sau cuộc đảo chánh thất bại năm 1960 mặc dù ông Viên chưa một ngày ở trong binh chủng này và chỉ mới mang cấp bậc Trung tá. Hồ sơ quân vụ của ông Viên ghi đầy những công lao to lớn trung thành với nhà Ngô nên càng được khối Công giáo trong quân đội tín nhiệm và ủng hộ. Khốn nỗi bà Viên quá lộng hành và gây nhiều tai tiếng nên vị trí của ông Viên bị đe dọa, ông thu mình ngậm miệng lại và chỉ biết tìm nguồn vui qua việc tập luyện Yoga tại nhà hay ghi danh đi học ở Đại học Văn Khoa mà không để tâm nhiều vào việc chỉ huy quân đội.

Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị với các Cục trực thuộc như Cục Tuyên úy, Cục Chiến Tranh Tâm Lý, Cục An Ninh Quân Đội, Đài phát thanh và báo chí quân đội thì do tướng Trần Văn Trung, một người Công giáo Phú Cam điều khiển. Cơ quan này đáng lẽ phải bảo vệ tinh thần quân đội thì lại trở thành một công cụ phục vụ cho các tuyên úy Công giáo trong quân đội. Hiện tượng này không lộ liễu như dưới thời ông Diệm nên người ngoài ít ai để ý, nhưng các thành phần thuộc các tôn giáo khác thì thấy rất rõ và tuy bất bình mà không dám công khai nói ra.

Cầm đầu Nha Động Viên là ông Bùi Đình Đạm, một sĩ quan Công giáo di cư và từng là kẻ dưới quyền tướng Huỳnh Văn Cao. Ông Đạm liên hệ mật thiết với Linh mục Trần Du, chủ nhiệm báo Hòa Bình, vị Linh mục nằm trong hệ thống tình báo đặc trách việc theo dõi sinh hoạt báo chí cho nhóm Thiệu-Quang. Đạm là một sĩ quan hoàn toàn thiếu khả năng nhưng nhờ ngoan đạo mà được ông Thiệu giao cho chức vụ Giám đốc Nha Động Viên, một cơ quan vô cùng quan trọng và dễ dàng làm tiền dân chúng trong một quốc gia đang có chiến tranh. Phụ tá cho ông Đạm là Đại tá Huỳnh Văn Lang, lại cũng là một sĩ quan Công giáo khác.

Xuống thấp một chút ở các đơn vị địa phương và thực sự nắm quân là các chức vụ Tư lệnh Quân đoàn, Sư đoàn thì những tướng tá Công Giáo hoặc tay chân của chế độ cũ cũng nắm phần đa số mà tiêu biểu là các tướng Ngô Du, Phạm Quốc Thuần, Đỗ Cao Trí, Nguyễn Văn Minh (cựu Tỉnh trưởng Long Xuyên thời Đệ Nhất Cộng Hòa, tay chân của Đặng Văn Quang), Phạm Văn Phú (nguyên Tư lệnh Phó Lực lượng Đặc biệt của Lê Quang Tung), Nguyễn Văn Toàn (từng chỉ huy Thiết giáp tấn công Phật giáo trong biến cố 1966), Lữ Lan (một tay chân thân tín của Tổng thống Diệm nên được Cao Thế Dung đề cao trong cuốn Làm thế nào để giết một Tổng thống).

Sau quân đội là Cảnh sát Công an. Ban đầu vì còn có ông Nguyễn Cao Kỳ làm Phó Tổng thống nên ông Thiệu đồng ý để cho Đại tá Trần Văn Hai (sau khi tướng Loan bị thương trong biến cố Tết Mậu Thân) làm Tổng Giám đốc. Nhưng vì ông Hai thân với đảng Đại Việt và lại là một sĩ quan liêm chính nên muốn nắm vững Công an, ông Thiệu đặt Trung tá Nguyễn Mâu (một đảng viên Cần Lao từng thay ông Nguyễn Văn Đẵng trong chức vụ Tỉnh trưởng Thừa Thiên để đàn áp Phật giáo năm 1963) nắm giữ chức vụ Phụ tá ngành Công an Đặc biệt, một chức vụ sinh sát do Dương Văn Hiếu nắm giữ thời chế độ Diệm. Sau đó, khi Phó Tổng thống không phải là ông Kỳ nữa, Thiệu bèn giao chức Tổng giám đốc Cảnh sát Công an cho ông Nguyễn Khắc Bình, vừa là bà con với vợ Thiệu vừa lại có công với nhóm Cần Lao (Ông Bình đã có công tố cáo với ông Ngô Đình Nhu hành động "phản loạn" của tướng Nguyễn Hữu Có khi ông Có xuống Mỹ Tho tổ chức đảo chánh chế độ Diệm năm 1963).

Như vậy, với một quân đội có những Cao Văn Viên, Đồng Văn Khuyên, Trần Văn Trung, Bùi Đình Đạm, Huỳnh Văn Lang, Ngô Du, Phạm Quốc Thuần,Đỗ Cao Trí, Trần Văn Minh, Phạm Văn Phú, Nguyễn Văn Toàn, Lữ Lan v.v... nắm những chức vụ then chốt ở trung ương; và với một lực lượng Công an Cảnh sát có những Nguyễn Mâu, Nguyễn Khắc Bình... Thiệu đã vá lại được mạng lưới Cần Lao hoặc Công Giáo bị rách vào năm 1963 để phủ xuống một quân lực mà các thành phần ưu tú và trong sạch nhất thì nằm ở tuyến đầu khói lửa chứ không phải tại các phủ bộ ở thủ đô Sài Gòn.

Với tình hình an ninh càng lúc càng suy thoái và tiếp nối chính sách quân sự hóa các tỉnh trưởng của chế độ Diệm, ông Thiệu mở rộng mạng lưới Công giáo ra khắp nơi. Để làm vừa long các chiếc "áo chùng đen", ông Thiệu còn trắng trợn và khiêu khích bổ nhiệm các sĩ quan Cần Lao cũ tại các địa phương đông Phật tử như Đại tá Thân, Đại tá Nguyễn Hữu Duệ tại Thừa Thiên và Đại tá Nguyễn Ngọc Khôi tại Đà Nẵng, hai sĩ quan sau là hai sĩ quan Công giáo cao cấp thuộc Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Tổng thống Phủ của ông Diệm trước 1963, còn Đại tá Thân là tay chân của Linh mục Cao Văn Luận.

Nhìn lại toàn bộ lực lượng nhân sự nắm các địa vị quan trọng tại miền Nam dưới chế độ Thiệu, từ chức Tổng thống Cộng Hòa đến Tỉnh trưởng Thừa Thiên, từ Cục Tiếp Vận đến Bộ Giáo dục, từ Tổng Liên đoàn đến Nha Động Viên, từ Tư lệnh Sư đoàn đến Chủ tịch Quốc hội, từ Ban Cố vấn Tối cao đến các liên danh trong Thượng viện, từ Cảnh sát Công an đến Ngoại giao, từ Nguyễn Cao Thăng đến Đặng Văn Quang, từ Cao Văn Luận đến Trần Du, từ Nguyễn Bá Cẩn đến Bửu Dưỡng,... ta thấy rõ ràng đám con mồ côi chính trị của chế độ cũ đang nỗ lực làm sống lại cái tinh thần độc tài Công giáo trị của chế độ cũ của những Thục, Diệm, Nhu, Xuân, Cẩn.

Nghị định số 116-BNV/CT đã chiếu theo "Dụ số 10 ngày 6 tháng 8 dl 1950 ấn định quy chế các hiệp hội" để thành lập "Hội CẦN LAO NHÂN VỊ CÁCH MẠNG ĐẢNG"

Bóng ma của chế độ Diệm vẫn đè nặng trên sinh hoạt chính trị của miền Nam để điều động những chiếc áo dòng màu đen lăng xăng ở các trung tâm quyền lực. Truyền thống độc tài và bạo trị của gia đình họ Ngô vẫn khống chế dư đảng Cần Lao trong quân đội và ngoài dân sự để thúc giục họ duy trì một chánh sách bạo trị hại dân hại nước. Nói cách khác, ông Diệm chết rồi nhưng những kẻ thừa kế của ông, mà đứng đầu là con chiên Nguyễn Văn Thiệu và các linh mục đầy quyền lực, đã thành công trong việc phục hồi lại cái xác chết đó để làm biểu tượng cho chế độ, một chế độ Diệm không Diệm./.

Phan vân Khai

25 April 2013

30 tháng Tư ơi, Hồn Nước sẽ về đâu?

Lời Tác Giả: Chỉ còn vài ngày nữa là đến ngày 30 tháng Tư, ngày mà cách đây 38 năm tôi đã nháy cẩng lên như một thằng điên vì vui sướng. Vì tôi tưởng kể từ nay, thanh niên Việt Nam sẽ không còn phải chém giết lẫn nhau nữa, bởi cuộc nội chiến tàn khốc nhất lịch sử dân tộc Việt Nam làm chết tới gần 5 triệu người đã kết thúc! Nhưng thật đáng thương sau ngày 30/4/1975 vẫn còn thù hận, hơn 1 triệu cán binh cộng hòa phải đi tù và chết đói trong lao tù hơn 16 vạn người, khoảng 60 vạn thuyền nhân bị chết chìm mất xác trên các đại dương khi vượt biển đi tỵ nạn và có tới 3 triệu người Việt phải bỏ nước ra đi không hẹn ngày trở lại. Đó là một tấn thảm kịch bi đát nhất trong lịch sử Việt Nam!
 
Vậy, ai là những kẻ đã góp phần gây ra tấn thảm kịch đó? Bài viết này sẽ nêu ra lời giải đáp một cách chủ quan của cá nhân tôi, chưa chắc đã phản ảnh trung thực tính khách quan của lịch sử, xin được trân trọng gửi tới quí vị độc giả để chúng ta cùng trao đổi và tìm ra được câu trả lời thích hợp nhất để lịch sử nước nhà mai sau không còn phải lặp lại.  
 
30 tháng Tư ơi, Hồn Nước sẽ về đâu?

(Kính viếng Hương Hồn 5 triệu đồng bào đã ngã xuống)
 
Nếu Mao đồng chí không thương Đảng CS Việt Nam
Thì sao 1930, lại cưu mang một "đứa trẻ sinh nằm trên cỏ"?[1]
Rồi nuôi nấng "đứa trẻ" đó lớn lên thành đứa con ngoan thực sự
Biết răm rắp vâng lời Mao mang theo "con đường vô sản" tới trời Nam
 
Nếu Mao đồng chí không yêu các nhà lãnh đạo Việt Nam
Thì sao lại giúp đỡ và dìu dắt chủ tịch Hồ Chí Minh "vĩ đại"?
Còn gả vợ cho người để thành con rể nước Trung Hoa mãi mãi[2]
Và trọn đời giữ gìn "Tình hữu nghị láng giềng như gắn bó môi răng!"
 
Nếu Mao đồng chí không hết lòng trong cuộc kháng Pháp 9 năm
Thì chắc gì đã có "Chiến Thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng" ngày ấy?
Nhưng lại phải đau đớn ký HĐ Genève cắt nước Việt ra hai Miền tê tái
Khiến nhiều gia đình Việt Nam phải chia ly trong buồn tủi hờn căm!
 
Nếu Mao đồng chí không dạy dỗ Hồ Viết Thắng và hàng ngàn cán bộ
Phải tiến hành CCRĐ thế nào dưới sự chỉ huy của cố vấn Trung Hoa
Thì làm sao chỉ trong hai năm có thể giết chết hai vạn người vô tội
Đã có công xây dựng nên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa?

Nếu Mao đồng chí không cho ra bản "Tuyên bố về lãnh hải TQ" vào 4/9/1958
Thì Phạm Văn Đồng đâu dám coi Hoàng-Trường Sa không là của Việt Nam
Bằng một bức Công Hàm gửi Chính Phủ TQ ngày 14 tháng 9 năm 1958?[3]
Để giờ đây phần xác đã yên giấc ngàn thu mà phần hồn vẫn băn khoăn!

Nếu Mao đồng chí không khuyên đảng bắt nông dân góp ruộng vào hợp tác
Thì làm sao đảng có hàng triệu thanh niên vào "giải phóng" Miền Nam?
Ngày đó nếu ai đào ngũ không vào chiến trường thì cả nhà chết đói
Vì đâu còn trâu bò ruộng đất kênh mương để có thể tự làm ăn!

Nếu Mao đồng chí không giúp Miền Bắc đem quân vào đánh Miền Nam
Thì chính phủ Hoa Kỳ lúc đó chắc gì đã muốn ồ ạt đổ quân vào Đà Nẵng[4]
Để Mao yên tâm triệt hạ các đối thủ chính trị trong CMVH mang danh vô sản
Mồm hô "Quyết đánh Mỹ đến người Việt cuối cùng!" mưu hủy diệt Việt Nam!

Nếu Mao đồng chí không cung cấp vũ khí cho Miền Bắc phá hủy VNCH[5]
Thì ngày 19/1/1974, sao quân Tàu có thể cưỡng chiếm được Hoàng Sa?
Để ngày 30/4/1975 thống nhất non sông lại bị mất đi phần Biển Đảo
Lãnh thổ thiêng liêng đã được giữ gìn từ nhiều thế hệ của ông cha!

Phải chi việc bắt 1 triệu cán binh VNCH vào các nhà tù cũng là Mao gợi ý?
Để người Việt tiếp tục xéo dày nhau cho thỏa lòng lang dạ thú của Mao
Vì gần 5 triệu người Việt chết trong nội chiến đối với Mao còn ít quá
Mao muốn dân Việt bị tiêu diệt nhiều hơn để có chỗ cho dân Tàu!

Ngày 9 tháng 9 năm 1976, Mao đồng chí qua đời thì cháu con Mao khôn lớn[6]
Các cấp lãnh đạo Việt Nam lại tiếp tục trả "ơn sâu, nghĩa nặng" bố con Mao
Bằng đất rừng, Mái Nhà Đông Dương, Biển Đông...để làm theo "Lời Bác"
Dưới sự dẫn dắt của kẻ thân Mao, 30 tháng Tư ơi Hồn Nước sẽ về đâu?

Ngạn ngữ có câu "Muốn biết ông là ai thì phải xem ông kết bạn với người nào?"
Bạn ông là một kẻ bạo tàn lớn nhất thế kỷ 20, hơn cả Tần Thủy Hoàng tái thế!
Ôi một ngàn năm Bắc Thuộc đủ rồi! Đồng bào hãy nhanh chân lên kẻo trễ!
Cùng tâm linh 5 triệu hồn oan, quyết giữ gìn Hồn Nước tới nghìn sau!


Hà Nội, 24/4/2013
Ts. Đặng Huy Văn


GHI CHÚ:
 
[1]- Năm 1960, xuất phát từ nguồn tin nói: Đảng cộng sản Việt Nam đã được thành lập ngày 3/2/1930 tại một sân bóng của Hồng Công Trung Quốc, nhà thơ Tố Hữu đã viết bài thơ "Ba mươi năm đời ta có đảng" trong đó có câu: "Như đứa trẻ sinh nằm trên cỏ".
[2]- Tăng Tuyết Minh – Wikipedia tiếng Việt
[3]-  Công Hàm Bán Nước do Phạm Văn Ðồng ký ngày 14/9/1958
[4]-  Ngày 8 và 9/3/1965, hai trung đoàn Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đầu tiên đã đổ bộ vào Đà Nẵng chính thức mở đầu cho cuộc can thiệp quân sự của Mỹ tại Việt Nam.
[5]- Những chữ viết tắt- "VNCH": Việt Nam Cộng Hòa. "CMVH": Cách mạng Văn Hóa. "HĐ": Hiệp Định. "CCRĐ": Cải cách ruộng đất.
[6]-  Mao Trạch Đông – Wikipedia tiếng Việt


23 April 2013

Ai là "Việt Kiều"?


Nguyên Giao

"Khúc ruột ở xa ngàn dặm"

Trên truyền thông Việt ngữ, càng ngày hai chữ "Việt kiều" càng thấy xuất hiện nhiều hơn. Chúng ta nên hiểu và sử dụng danh xưng này như thế nào để được chỉnh về chính trị (politically correct)?

"Kiều" có nghĩa là ở hải ngoại, được dùng làm tĩnh tự cho các danh tự, như: "Kiều dân" là người dân sống ở bên ngoài ranh giới quốc gia mà người ấy được sinh ra (native land); "Kiều hối" là tiền bạc ở ngoại quốc; "Kiều vận" là vận động dân mình ở ngoại quốc.

Chữ "kiều" đã được dùng trong các chữ "Pháp kiều", "Hoa kiều", "Mỹ kiều", và "Việt kiều yêu nước". Dười thời Đệ Nhất Cộng Hoà, người Hoa sinh sống ở nam Việt Nam được chính thức gọi là Hoa kiều. Suốt trong cuộc chiến Bắc-Nam Việt Nam (1954-1975), nhà cầm quyền Hà Nội gọi các thành phần người Việt ở hải ngoại có những sinh hoạt phản chiến, hỗ trợ, hay có lợi cho cộng sản Việt Nam là "Việt kiều yêu nước".

Tương tự, người Thái sinh sống ở ngoài Thái Lan là Thái kiều, và người Phi không ở nước Phi là Phi kiều. Trong hoàn cảnh chính trị quốc gia bình thường, liên hệ giữa chính phủ một nước với kiều dân của họ tốt đẹp, và không có vấn đề gì làm hai bên phải bận tâm: Khi những viên chức của chính phủ một quốc gia xuất ngoại công cán ở nơi xa có kiều dân của họ sinh sống, các viên chức cao cấp thuờng được kiều dân tiếp đón tưng bừng như các hình ảnh thấy trên các bản tin thời sự. Ngược lại, khi các kiều dân có dịp về thăm nơi "chôn rau, cắt rốn" của mình, họ thường được đối xử bình thường – có khi còn được biệt đãi – bởi các viên chức chính phủ, nhất là ở các cơ quan liên hệ đến hải quan, du lịch, hay thông hành.

Chữ "kiều" sẽ trở nên khúc mắc hơn khi một quốc gia bị các biến cố chính trị đưa đến các cuộc di dân có khi là ngoài ý muốn tự nguyện của một số các công dân ra khỏi biên giới quốc gia, hay khi quốc gia bị chia thành các chế độ chính trị đối nghịch. Thí dụ: Hiện có hai nước Hàn quốc: Bắc Hàn, và Nam Hàn, cùng là hội viên của Liên Hiệp Quốc. Như vậy, nếu xét đến liên hệ giữa các Hàn kiều, và hai chính phủ đối nghịch chính trị, cũng như khác biệt về luật lệ quốc tịch, và di dân của Nam và Bắc Hàn, cần phải phân biệt có hai loại Hàn kiều: Nam Hàn kiều, và Bắc Hàn kiều.

Cũng tương tự như Hàn kiều, trường hợp các Hoa kiều của Trung Cộng, và Đài Loan cũng cần phải được phân biệt cho rõ ràng, để có thể tránh được những hiểu nhầm vô tình, hay "vơ đũa cả nắm", có thể đưa đến những hậu quả chết người: Một Nam Hàn kiều trên đất Mỹ vi phạm những điều kiện của luật lệ di trú nếu bị trục xuất về Bắc Hàn thì khác gì như bị án tử hình?

So với các quốc gia trên thế giới, Việt Nam là một trường hợp khúc mắc liên hệ đến hai chữ "Việt kiều". Lý do là vì Việt Nam là quốc gia độc nhất trên thế giới có tỉ lệ dân Việt ở hải ngoại tương đối cao (khoảng 3 triệu, so với 84 triệu trong nước), mà hầu hết thành phần này lại là nạn nhân của chính phủ đang cầm quyền ở Việt Nam, hậu quả của biến cố 1975. Vốn là tị nạn chính trị chế độ cộng sản, người Việt ở hải ngoại luôn luôn tìm mọi cách để biểu lộ cho người dân trong nước, dân bản xứ, cũng như cộng đồng thế giới biết họ không chấp nhận những ngưới cầm quyền ở Hà Nội là đại diện chính thức, và hợp pháp cho quốc gia Việt Nam. Các viên chức của Hà Nội khi đi công cán ở hải ngoại thường bị các kiều dân "dàn chào", biểu tình phản đối, làm cho bĩ mặt trước truyền thông quốc tế. Ngược lại, khi về thăm Việt Nam, người Việt ở hải ngoại thường bị các viên chức có thẩm quyền ở hải quan, liên hệ đến thông hành, và du lịch cố ý ấn định giá vé, lệ phí cao hơn gấp hai, gấp ba so với cho người trong nước, làm khó khăn để bòn tiền trà nước, để ý bằng con mắt nghi ngờ, cùng các biện pháp kỳ thị khác.

Trong thời chiến, trước khi chiếm được miền Nam, cộng sản Hà Nội đã dùng một số "Việt kiều yêu nước" để tuyên truyền cho chiêu bài "Chống Mỹ, cứu nước" của họ. Thật ra, "Việt kiều yêu nước" chỉ là "người Việt thân cộng ở hải ngoại".

Ngày nay, Hà Nội lại muốn tiếp tục "mập mờ đánh lận con đen" muốn lợi dụng nguồn tài nguyên (như ngoại tệ, và kiến thức kỹ thuật) càng ngày càng gia tăng của người Việt ở hải ngoại để duy trì chế độ. Họ dùng chữ "Việt kiều" để gọi chung tất cả 3 triệu người Việt ở hải ngoại, với tà ý "xập xí, xập ngầu" với đồng bào ở trong nước, cũng như cộng đồng thế giới rằng 3 triệu người Việt ở hải ngoại vẫn là "Khúc ruột ở xa ngàn dặm", ám chỉ họ được sự công nhận, và hỗ trợ của 3 triệu "Việt kiều". Những ai còn nghi ngờ ý đồ của Hà Nội xin hãy tìm đọc kỹ nội dung bộ luật hiện hành về quốc tịch của Hà Nội để thấy rằng: Cộng sản Hà Nội không nhượng bộ một ly nào đối với người Việt trong cũng như ngoài nước. Bộ luật quốc tịch Việt Nam cộng sản vẫn khăng khăng qui định: Người Việt nào chưa được giấy phép của Chủ tịch Nước từ bỏ quốc tịch Việt Nam vẫn là công dân Việt Nam, dù đã vào quốc tịch bất cứ nước nào. Hà Nội không chấp nhận song tịch, mà xác quyết người Việt có quốc tịch nước ngoài vẫn là người còn quốc tịch Việt Nam, nên vẫn bị luật lệ Việt Nam chi phối. Hà Nội còn triệt để hơn nữa khi áp dụng luật này cho các con cháu thế hệ thứ hai sanh tại ngoại quốc của người Việt ở hải ngoại: Những thiếu niên Việt sanh tại Mỹ, Pháp, Úc, v.v., con cái của cha mẹ có quốc tịch của các nước ấy, vẫn bị nhận vơ là "con dân" của cộng sản Hà Nội! Trên thế giới thử hỏi có chính phủ nào vừa vô lý, vừa trâng tráo, và nham hiểm như vậy không?

Trong khi đó, mỗi khi người Việt ở hải ngoại có vấn đề với các cơ quan thẩm quyền sở tại – thí dụ như về giấy tờ cư trú, di dân, hay mỗi khi bị dân bản xứ kỳ thị ở các quốc gia Đông Âu – các viên chức ở sứ quán của Hà Nội lại hoặc bất lực, hoặc cố ý quay mặt làm lơ, không hành xử nhiệm vụ thuộc phạm vi công vụ của mình.

Để tránh sự lợi dụng của nhà cầm quyền Hà Nội, cũng như những thành phần thân cộng ở hải ngoại, chúng ta, nhất là những người Việt đã có quốc tịch của nước sở tại (như Pháp, Đức, Anh, Úc, Mỹ), nên minh xác rõ ràng rằng chúng ta là "người Pháp (hay Đức, hoặc Anh, hay Úc, hoặc Mỹ) gốc Việt, cựu tị nạn cộng sản (nếu thích hợp)", chứ không phải là "Việt kiều" gì hết! Con em của chúng ta được sinh ra ở hải ngoại là "người Pháp (hay Đức, hoặc Anh, hay Úc, hoặc Mỹ) gốc Việt", tự động có quốc tịch, và là công dân của nước mà chúng đã được sanh ra. Không kể một thiểu số thân cộng, hầu hết người Việt ở hải ngoại không những không là "Việt kiều", mà còn công khai cương quyết chống lại các kế hoạch kiều vận của bạo quyền Hà Nội, đồng thời tiếp tay hỗ trợ cho các chiến sĩ tranh đấu cho tự do, nhân quyền, và dân chủ ở trong nước.

Cũng đừng quên rằng, vì có quốc tịch của nước mà chúng ta sinh sống, đổi lại những quyền lợi đáng kể mà tất cả các công dân của nước đó đều được hưởng hàng ngày, chúng ta có bổn phận thực thi những nghĩa vụ công dân như đóng thuế, đi bầu, tôn trọng hiến pháp cũng như luật lệ, và phục vụ quyền lợi dân tộc và quốc gia sở tại.

Tóm lại, vô tình chấp nhận không đúng nghiã những từ ngữ Hà Nội láu cá sử dụng – như hai chữ "Việt kiều" – chẳng khác gì như để mình rơi vào bẫy xập tuyên truyền của bạo quyền CS gian manh./.


Nguyên Giao

21 April 2013

MUÔN ĐỜI DÂN TỘC VIỆT VẪN NHỚ ƠN QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG

Mường Giang

            Hơn 80 năm qua CSVN lúc nào cũng tìm đủ mọi cách, để trương ngọn cờ máu mà chúng vay mượn của Nga Tàu, đem về cắm đỏ trên lãnh thổ Hồng Lạc. Đồng thời đem hình tượng và sự nghiệp cứu nước ' dõm ' của Hồ Chính Minh ra để làm lu mờ công đức dựng và mỡ nước của tiền nhân. Câu chuyện " Tàu trù ếm long mạch trên núi Tổ " cũng không ngoài ý đồ triệt tiêu một biểu tượng thiêng liêng nhất của người Việt, do bọn Việt gian thân Tàu trong guồng máy đảng CS thực hiện theo lệnh chủ .

            Hiệp định Genève năm 1954 chia cắt VN thành hai miền riêng biệt tại vỹ tuyến 17, lấy con sông Bến Hải làm ranh giới. Theo quy định, mỗi một miền được đặt hai đồn canh  dọc theo bờ sông giới tuyến : Ðồn Hiền Lương và Cửa Tùng (Bắc Việt), Xuân Hòa và Cát Sơn (VNCH). Cả hai phía đều có treo cờ hằng ngày. Và đó là nguyên nhân đã làm hai phía đổ máu nhiều lần vì ' Lá Cờ ' được treo ở hai đầu cầu bắt ngang con sông ngăn cách .

            Thời gian đầu thi hành Hiệp định (1954-1956), còn có sự hiện diện của các toán kiểm soát đình chiến, nên hai phía vẫn tôn trọng cở lá cờ được qui định 3,2x 4,8m. Nhưng từ sau năm 1956, phía VNCH bên đồn canh Xuân Hòa luôn thay đổi khổ lá cờ Vang ba Sọc Ðỏ , theo lệnh của các đơn vị trưởng trấn đóng miền giới tuyến. Thế là trận giặc ' Chọi Cờ ' bùng nổ hai bên bờ sông Bến Hải , mà phần thắng luôn về phía VNCH vì có đủ phương tiện và được tự do quyết định hơn phía CSBV. Theo các tài liệu còn lưu trữ cho biết suốt 20 chia cắt, cả hai phía đã thay đổi cở ' cờ ' tới 267 lần để ăn thua, trong đó nhiều lần cột cờ phía bắc bị máy bay oanh tạc mà nặng nhất vào năm 1967, cả cột cờ, đồn canh và cầu Hiền Lương về phía CS bị bom đánh xập.

            Có hiểu thấu những câu chuyện bên lề lịch sử, chúng ta mới thấy được tầm mức quan trọng và ý nghĩa thiêng liêng của lá cờ. Có thể nói được " Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của Quốc Dân VN mà VNCH đã tiếp nối sử dụng tới ngày nay ", đã được hình thành bằng cả núi xương và sông máu của quân dân Miền Nam từ đó cho tới ngày nay (2013). Cho nên không ai có thể tự mình khơi khơi,  nhân danh này này nọ nọ, để buộc người khác phải theo ý mình , phải hũy bỏ lá cờ thiêng mà mọi người trân quý hơn sinh mạng cá nhân, hay phải đứng chung dưới một ngọn cờ mà trong thâm tâm của họ, đã coi nó như là biểu tượng của một chế độ dã man, trộm cướp, xấu xa bán nước như lá cờ máu của Cộng Ðảng VN, mà ngày nay lịch sử và đời thật đã xác nhận.

            Ta biết Nam Việt là quốc hiệu của VN thời nhà Triệu (207-111 trước tây lịch), có lãnh thổ rộng lớn, bao gồm Vân Nam, Lưỡng Quảng, Hải Nam, Bắc Việt và ba tỉnh Thanh-Nghệ-Tỉnh phía bắc Trung Phần. Sau đó nước ta bị người Hán cưởng chiếm và sáp nhập vào lảnh thổ nước Tàu. Năm 939 sau TL, Ngô Quyền Ðại Ðế chém Hoàng Thao trên Bạch Ðằng Giang, đuổi quân Nam Hán ra khỏi bờ cỏi Việt nhưng chỉ thâu hồi lại được một phần lảnh thổ của tiền nhân : Ðó là Bắc Việt và ba tỉnh miền cực bắc Trung Phần ngày nay.

             Năm 1802 Vua Gia Long thống nhất đất nước sau 300 năm nội chiến nhưng cho tới năm 1804 nhà Thanh mới sai Tế Bá Sâm, mang quốc ấn và chiếu phong vua Gia Long, đồng thời cũng chấp nhận quốc hiệu của nước ta vào thời nhà Nguyễn là Việt Nam thay vì Nam Việt. Tuy nhiên phải đợi tới cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, hai tiếng VN mới được cả trong và ngoài nước, sử dụng với tất cả ý nghĩa thiêng liêng và toàn bích. Ngày 29-4-1975, Cộng Sản Quốc Tế mở cuộc tổng tấn công thủ đô Sài Gòn, cưởng chiếm Miền Nam VN, đem gông tù Phát-Xít cùm xích lên lảnh thổ và dân tộc Việt, từ sau ngày 1-5-1975 tới nay vẫn không thay đổi.

            Ngày 29-4-2008, toàn bộ đảng CSVN đang nắm quyền cai trị VN, đã công khai chối bỏ quốc hồn, quốc thể của dân tộc, khi trải thảm quì gối cung nghênh ngọn đuốc máu của Tàu Ðỏ qua lớp hào nhoáng bên ngoài ' Ðuốc Thế Vận Bắc Kinh 2008 ', gần như đã bị cả thế giới văn minh loài người tẩy chay, nguyền rủa và khinh bỉ vì đã lộ ra chân tướng côn đồ, ỷ mạnh hiếp yếu của một đế quốc thực dân vừa ngoi lên từ Châu Á, qua sự tiếp tay cật lực của bọn lái buôn da trắng, Nhật, Nam Hàn.. .

            Tóm lại đối với dân tộc VN, điều mà tổ tiên bao đời luôn nhắc nhớ con cháu mai sau , là phải cảnh giác trước hiểm họa của giặc Tàu, lúc nào cũng nuôi dã tâm muốn chiếm cho được nước ta, ròng rã liên tục suốt mấy ngàn năm máu lệ. Ðảng CSVN đã đi ngược lại truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc Việt, công khai ' cỏng giặc Tàu về dầy xéo quê hương, làm nhục quốc thể '.Ðó là những thành tích vĩ đại của đảng Hồ, mà hiện nay khắp thế giới đều biết, đã công khai khởi sự từ năm 1958, qua hành động công nhận hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa của VN, là lãnh thổ của Trung Cộng. Sau đó Linh, Mười, Đồng đã đại diện cho đảng đến tận Thành Đô (Tứ Xuyên), ký kết với Giang Trạch Dân và Lý Bằng vào ngày 3 + 4 tháng 9  năm 1990.  Tờ văn bản bán nước VN lần thứ hai cho Tàu, với cam kết tới năm 2020 VN vĩnh viễn sẽ trở thanh một khu tự trị của Tàu đỏ như Tạng, Hồi, Nội Mông

            Bán đất của tổ tiên cho giặc thù đã là nổi hận nhục muôn đời nhưng hậu quã chết người mà ngày nay con cháu Việt phải gánh chịu hằng ngày trên biển Ðông,qua sự kiện Phạm văn Ðồng, theo lệnh Hồ Chí Minh, ngày 4-9-1958, ký công hàm nước, xác nhận bản đồ và lời tuyên bố lãnh hải của Trung Cộng là 12 hải lý. Có vậy Trung Cộng mới ngang nhiên dùng vũ lực cướp chiếp Hoàng Sa của VN năm 1974, Trường Sa năm 1988 và vẽ bản đồ lưỡi bò, lập thành phố Tam Sa.. Hiện tại, biển VN từ Quảng Nam vào tới Phan Thiết, kể cả các nước Phi, Nam Dương, Mã Lai trong Ðông Hải, từ bờ ra hải phận chỉ còn có 50 hải lý, đúng như bản đồ nước Tàu mới vừa được ban hành, Tàu công bố cải danh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VN , thành một đơn vị hành chánh mang tên Huyện Tam Sa trực thuộc tỉnh Hải Nam, vào tháng 11-2007.

            Không kể thời Bắc thuộc huyễn hoặc, bao đời Việt Nam trong dòng lịch sử, khi mất nước cũng như hồi độc lập, ngoại trừ trường hợp bán nước duy nhất của Mạc Ðăng Dung, cho nhà Minh vào năm 1540, không có một vua chúa nào, dám công khai đem một tấc đất hay đảo biển dù ở tận chốn xa xôi muôn trùng, để dâng bán cho giặc như Hồ Chí Minh và đảng VC dám làm.. suốt thời kỳ 1945 cho tới ngày nay. Vậy mà lúc nào, cũng nói Trần Thiểm Bình, Hồ Hán Thương, Mạc Ðăng Dung, Lê Chiêu Thống, Nguyễn Ánh.. cõng rắn cắn gà nhà.

1- GHI NHỚ CÔNG ÐỨC DỰNG NƯỚC CỦA TỔ HÙNG VƯƠNG :

            Theo Việt sử, Họ Hồng Bàng là triều đại đầu tiên của nước ta, có quốc hiệu là Văn Lang. Qua truyền thuyết được ghi trong tất cả các bộ sử ký nước Nam, từ trước tới nay thì nước Văn Lang truyền được 18 đời vua, mới bị mất nước về tay Thục Phán, cũng là một người Việt trong nhóm Bách Việt.
           
            Ðó là Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân - Au Cơ, Hùng Quốc Vương, Hùng Việt Vương, Hùng Hi Vương, Huỳng Huy Vương, Hùng Chiêu Vương, Hùng Vị Vương, Hùng Ðịnh Vương, Hùng Uy Vương, Hùng Trinh Vương, Hùng Vũ Vương, Hùng Anh Vương, Hùng Hiền Vương, Hùng Tạo Vương, Hùng Nghị Vương và Hùng Tuấn Vương. Thục Phán đánh bại vua Hùng thứ 18, vào khoảng thế kỷ thứ III trước tây lịch. Do nhà vua là người thuộc nhóm Âu Việt, nên đổi tên nước là Âu-Lạc ( tức là Lạc Việt và Âu Việt), xưng hiệu là An Dương Vương, dời kinh đô từ Phong Châu về Cổ Loa, thuộc Huyện Ðông Anh, tỉnh Phúc Yên (Bắc Phần).

            Riêng về danh xưng quốc tổ Hùng Vương của VN, đã có sự bàn cãi sôi nổi của nhiều học giả trong cũng như ngoài nước, cũng chỉ vì các danh từ Lạc Hầu, Lạc Tướng nên phải có Lạc Vương, chứ không phải Hùng Vương. Ðầu tiên là một học giả Pháp tên Henry Maspéro, tiếp theo có Sở Cuồng Lê Dư, Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, Ðào Duy Anh (miền Bắc), Phạm Hoàng Mỹ, Trần Viên Chung (miền Nam).. trước tháng 5-1975. Chung qui cũng vẫn quanh vấn đề, phải gọi vua nước Văn Lang là ' Hùng vương hay Lạc Vương ?'.

            Vì nước ta bị Bắc Thuộc cả ngàn năm, nên hầu như các nguồn sử liệu trước đó, đã bị mất mát hay tiêu hủy, nên chẳng có một chứng tích nào sót lại, ngoài sử do người Tàu thời đó viết. Mãi cho tới thời vua Trần Thái Tôn vào năm 1217, sử gia đầu tiên của nước ta là Lê Văn Hưu, mới soạn bộ ' Ðại Việt Sử Ký ', gồm 30 quyển nhưng cũng chỉ bắt đầu, từ thời vua Triệu Vũ Ðế (207 trước TL ) của Nhà Nam Việt, cho tới cuối nhà Hậu Lý (vua Lý Chiêu Hoàng ) mà thôi. Thời Vua Lê Thánh Tôn, quan Lễ Bộ Thượng Thư là Ngô Sĩ Liên, mới tom góp, sưu tầm và ghi chép lại những huyền thoại, truyền thuyết trong dân gian, qua hai tác phẩm ' Việt Ðiện U Linh 'của Lý Tế Xuyên và ' Lĩnh Nam Chích Quái ' của Trần Thế Pháp, để viết bộ ' Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư ', gồm 15 quyển, chia thành hai phần, trong đó 5 quyển đầu gọi là ' Ngoại Kỷ ' chép từ đời Hồng Bàng cho tới năm 938 sau TL, Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam Hán, mở nền tự chủ cho dân tộc VN tới ngày nay.

            Cũng từ đó, nước ta qua các triều đại, đều làm lễ giỗ Tổ Hùng Vương, vào ngày mồng mười tháng ba (10-3) âm lịch hằng năm. Truyền thống trên bao đời đã khắc sâu vào tâm trí của người Việt cả nước, và phát sinh ra câu phong dao mà ai cũng đều thuộc lòng :

            ' Dù ai đi ngược về xuôi
            nhớ ngày giỗ Tổ, mồng mười tháng ba .'

            Trước năm 1945, giỗ Tổ Hùng Vương được quan Lễ Bộ Thượng Thư, thay mặt nhà vua làm chủ tế, tại đền 18 Tổ Hùng được xây dựng từ thời Hậu Lê (hậu bán thế kỷ XV) và liên tiếp được tu bổ nhiều lần vào thời nhà Nguyễn. Ðền Hùng được dựng trên núi Nghĩa Lĩnh, thuộc đế đô Phong Châu của nước Văn Lang. Miền này nay là xã Hy Cương, Huyện Lâm Thao, Tỉnh Phú Thọ (Bắc Phần).


            Phong Châu là đia linh nhân kiệt, phong cảnh hùng liệt diễm tình, phía trước có nhiều sông lớn tụ hội, hai bên có nhiều núi cao chầu hầu.Tại đây đất đai từ trên gò xuống tới bãi, đều màu mỡ xanh tốt. Ðúng là nơi định đô lập nghiệp muôn đời của một dân tộc tuyệt luân phi thường, anh hùng bất khuất nhưng tâm hồn phong thái vẫn hòa nhã yêu chuộng hòa bình.

            Phong Châu cũng là Bạch Hạc ngày nay, nằm bên tả ngạn sông Lô (Thao), cũng là nơi đã chứng kiến nhiều chiến công của dân tộc trong dòng sử Việt, mà gần nhất là chiến thắng sông Lô trong cuộc chiến tranh Việt-Pháp. Do các yếu tố phong thổ đặc biệt trên, nên khi còn tại vị, các Tổ Hùng đã dựng đền trên núi Nghĩa Lĩnh hay núi Hùng. Nghĩa Cương, Hùng Lĩnh hay Hy Cương đều chung một danh xưng chỉ núi Hùng, cao 175m, nằm trong thôn Cổ Tích. Núi Hùng chung quanh được bao bọc bởi 99 ngọn đồi Voi Phục, với cây cối quanh năm xanh tươi mát mẻ. Ðền Hùng là nơi tế tự trời đất, thổ thần và tiên tổ của dân tộc Hồng-Lạc. Ðền này, từ đó về sau, trải qua các triều đại trong lịch sử, đều được chọn làm Ðền Tổ Hùng Vương.

            Phong cảnh đền Hùng muôn đời hùng vĩ, trời xanh nắng ấm vào tiết Thanh Minh nhằm vào tháng ba âm lịch hằng năm. Trong dịp này, Ðền đã có dịp soi bóng trên dòng nước xanh của dòng Bạch Hạc, là vị trí giao lưu của các con sông trong vùng.

            Trên đường lên Ðền Hùng, dưới chân nuí có Ðền Giếng, trong đó tới nay vẫn còn chiếc Giếng Ngoc, mà theo truyền thuyết là nơi các vị công chúa con vua Hùng, thường tới tắm gôi, chải tóc và tô môi. Rời Ðền Giếng phía ngoài, qua một một cổng xây bằng đá, để vào Ðền Hạ. Theo sử liệu được ghi chép trong Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên, thì chính nơi đây, quốc mẫu Âu Cơ của Ðại Việt, một lúc sinh trăm trứng rồi nở thành trăm người con trai. Sau đó mẹ chia phân nửa cho cha là Lạc Long Quân, rồi dẫn những con còn lại lên núi. Phần Lạc Long Quân cũng nhường ngôi vua cho con trưởng là Hùng Quốc Vương làm vua nước Van Lang.

            Trong Ðền Hạ có chùa Thiên Quang với gác chuông, bia đá cổ, trên đó ghi khắc công đức dựng nước của Tổ Hùng. Chung quanh chùa còn nhiều đại thụ như thông, tùng rất lâu đời nhưng vẫn xanh tốt, thân cây vài người nối tay ôm không hết, đã nói lên sự thách thức với thời gian của cây, đồng hành là sự tồn tại của dân tộc Hồng Lạc, trong dòng sử Việt, từ ấy đến nay.

            Rời Ðền Hạ, leo 168 bậc đá là tới Ðền Trung. Theo truyền thuyết, Ðền Trung là chỗ mà các vị Tổ Hùng luận bàn việc nước với triều thần, mà thời đó được gọi qua danh xưng Lạc Hầu, Lạc Tướng. Ðây cũng là nơi vua Hùng thứ sáu, truyền ngôi cho Hoàng Tử Lang Liêu, là người đã trúng giải nhất trong cuộc thi, với hai thứ bánh Chưng và bánh Dầy, món ăn quốc hồn quốc tuý của dân tộc Việt.

            Ðền Trung hiện tại là địa điểm đặt TỔ ÐÌNH NAM BANG, thờ kính Mười Tám Vua Hùng. Trên cùng nơi đỉnh núi là Ðền Thượng với tấm bảng vàng khắc bốn đại tự : 'NAM QUỐC SƠN HÀ '.Ðây chính là nới Các Tổ Hùng hằng năm tới làm lễ Tế Trời Ðất và Thần Nông, Cũng tại Ðền Thượng vào đời vua Hùng thứ sáu, Phù Ðổng Thiên Vương tức là Thánh Gióng đã đánh thắng giặc Ân. Phía bên trái đền, có một ngôi mộ đá rất cổ kính và được mọi người tin là chốn an nghĩ nghìn thu của Hùng Vương thứ 6. Tại đây nhìn chung quanh, có nhiều núi lớn nhỏ, với hình tượng rất giống bầy voi đang hường đầu quỳ chầu Tổ.

            Trải qua bao đời, hằng năm dân tộc Việt đều củ hành giỗ Tổ Hùng rất trang trong vào ngày mồng mười tháng ba âm lịch. Ðây được coi là ngày hội lớn nhất của đất nước ta, theo đó dân tộc Việt vốn là Con Rồng Cháu Tiên, qua truyền thuyết Lạc Long Quân-Âu Cơ.

            Trong suốt thời gian tồn tại của VNCH, tại thủ đo Sài Gòn cũng có Ðền Hùng, để con cháu hằng năm tới làm lễ cúng giỗ. Chánh phủ Miền Nam đã có một dự án lớn, xây dựng Ðền Hùng trên đỉnh nuí Chứa Chan, gần ngã ba ông Ðồn, thuôc quận Xuân Lộc tỉnh Long Khánh. Tiếc thay chương trình xây dựng bị hủy bỏ theo vận nước vào ngày 30-4-1975. Hiện nay Ðền Hùng đã theo chân người Việt tị nạn khắp các nẻo đường hải ngoại tạm dung, vì người Việt còn thì ngày giỗ Tổ Hùng vẫn miên viễn không ai có thể xoá hay thay thế bằng một danh xưng nào khác, mà ông cha ta đã dựng lên từ mấy ngàn năm trong dòng sử Việt :

            ' Bia đá chẳng mòn tòa miếu cũ
            Văn Lang muôn thuở tỏ Hùng Vương '

2- KHÔNG QUÊN CÁC VỊ TƯỚNG LÃNH QLVNCH ĐÃ HY SINH VÌ NƯỚC

            Từ ngày thành lập cho tới khi sụp đổ, QLVNCH có hơn 100 vị tướng lãnh. Người có cấp bậc cao nhất trong quân đội là Cố Thống Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng QDVNCH. Nhiều tướng lãnh đã tử trận trước ngày 30-4-1975 như Cố Ðại Tướng Ðổ Cao Trí, tướng Nguyễn Viết Thanh, Nguyễn Bá Liên, Trương Quang Ân, Lê Ðức Ðạt, Nguyễn Văn Hiếu. Các tướng Lý Tòng Bá, Nguyễn Vĩnh Nghi,Phạm Văn Sang, Trần Văn Cẩm.. bi sa cơ giữa trận, còn Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tỉnh Trưởng Chương Thiện, bị VC hành quyết tại Cần Thơ vào ngày 1-5-1975 vì không tuân lệnh đầu hàng.

            Sau đó hơn phân nửa các tướng lãnh không bỏ chạy, đều bị bắt đi tù tại các trại giam khổ sai từ Nam ra Bắc, tận biên giới Viêt-Lào-Hoa. Chịu cảnh tù tội gần 17 năm, lâu nhất là các tướng Lê Minh Ðảo, Trần Quang Khôi, Dỗ Kế Giai, Lê Văn Thân và Trần Bá Di. Nói chung chỉ có một số rất ít, tham sống bỏ binh sĩ thuộc cấp, đeo máy bay Mỹ chạy ra ngoại quốc để chết già chết nhục trong sự quên lãng và cười khinh của miệng đời và thuộc cấp.

            Nhưng may thay, giữa những kẻ hèn hạ cúi mặt ra đi, trong hàng ngủ tướng lãnh Miền Nam, còn có rất nhiều khuông mặt LỚN đầy UY VŨ HIÊN NGANG, chấp nhận cái chết liệt oanh làm banh mặt kẻ thù lúc đó, góp phần với đồng bào và các chiến sĩ vô danh anh hùng khác, , nêu tấm gương bất khuất của người lính trận, cái tiết tháo ngàn đời của đấng sĩ phu trí thức Hồng-Lạc và trên hết là cái TRÁCH NHIỆM-DANH DỰ của Cấp Chỉ Huy, Lãnh Ðạo : 'Sinh vi Tướng, Tử Vi Thần - Nhất tướng công thành vạn cốt khô nên Thành Mất Phải Mất Theo Thành '.Những danh tướng VN Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai.. ngay khi tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh bắt QLVNCH buông súng, rã ngủ đầu hàng Cọng Sản Ðệ Tam Quốc Tế lúc trưa ngày 30-4-1975, các vị trên đã tự tìm cái chết vinh, làm hãnh diện cho màu cờ và sắc áo của QLVNCH, mãi mãi trong dòng sử oai hùng Nước Việt.

+ THIẾU TƯỚNG PHẠM VĂN PHÚ :

            Xuất thân từ binh chủng Nhảy Dù, từng tham gia Mặt Trận Ðiện Biên Phủ năm 1954. Nguyên Tư Lệnh Quân Ðoàn II từ 1974-1975. Viết về Tướng Phú, hầu như các sử gia cận đại trong và ngoài nước, phần nào quy trách nhiệm cho ông, trong trận Ban Mê Thuộc thất thủ vào tháng 3-1975. Kế tiếp là cuộc lui quân từ Pleiku về Tuy Hòa, trên Liên Tỉnh Lộ 7-B hoàn toàn thất bại, làm tan vở gần hết lực lượng hùng hậu của Quân Khu 2.

             Hậu quả làm hằng trăm ngàn đồng bào vô tội và binh sĩ các cấp đã chết thảm trong khi di tản, vì các cấp chỉ huy cuộc lui quân từ Bộ Tổng Tham Mưu ở Sài Gòn, cho tới ngoài mặt trận, chia rẽ đố kỵ, làm mất hết yếu tố thành công, khác xa với cuộc lui quân đêm 20-4-1975 của SD18BB +LD1ND + TK.Long Khánh + TD82BDQ do tướng Lê Minh Ðảo đi bộ chỉ huy, trên Liên Tỉnh Lộ 2, lính và dân hầu hết đều được về tới Bà Rịa, kể cả TD2/43/SD18BB của Thiếu Tá Nguyễn Hửu Chế, đoạn hậu trong cuộc lui quân thần tốc này.

            Tự biết mình là vị tướng trấn giữ biên cương, không làm tròn trách nhiệm trước đồng bào và quân sĩ dưới quyền, tướng Phú đã khẳng khái kết thúc đời mình bằng độc dược ngày 1-5-1975, dù ông có phương tiện để chạy ra ngoại quốc như một vài tướng lãnh khác. Ông chết trước là để tạ tôi với quốc dân và trên hết là chứng tỏ với giặc Cộng, cái uy vũ của người làm tướng Miền Nam, không phải ai cũng hèn hạ như VC từ Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp.. khi sa cơ đã tàn nhẩn bán rẽ đồng đội mình cho địch,, để đổi lấy tiền bạc và mạng sống cá nhân.

+ THIẾU TƯỚNG NGUYỄN KHOA NAM :

             Tư Lệnh quân đoàn IV tại Cần Thơ. Ông sinh trưởng trong một gia đình danh giá đạo đức tại Thừa Thiên và xuất thân từ Binh chủng Nhảy Dù. Trong cuộc đời binh nghiệp, Ông là một trong những tướng lãnh Miền Nam, cho tới ngày cuối cùng, luôn được tiếng là liêm chính, nghiêm minh và đạo đức.

            Ngày 30-4-1975, dù Sài Gòn bị VC tấn công tứ phía nhưng gần hết lãnh thổ Quân Khu IV, quân lực VNCH và các cấp chỉ huy tại các tiểu khu vẫn còn nguyên vẹn và giũ vững tinh thần. Khi Tổng Thống Minh nghe theo sự xúi giục của Nguyễn Hửu Hạnh và đám VC nằm vùng, bắt QLVNCH buông súng đầu hàng. Tướng Nam tuân hành theo lệnh thượng cấp và kỷ luật quân đội nhưng nhất quyết không bỏ chạy cũng như không chịu nhục trước giặc xâm lăng. Vì vậy ông đã dùng súng tự kết liểu đời mình, ngay văn phòng Tư Lệnh quân đoàn tại Cần Thơ, trong sự thương tiếc trọng kính của thuộc cấp và binh sĩ dưới quyền, trong đó có cố Ðại Tá Tỉnh trưởng Chương Thiện là Hồ Ngọc Cẩn, cùng binh sĩ dưới quyền, không chịu buông súng đầu hàng.

+ TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG :

            Ông sinh năm 1933 tại Hốc Môn, tỉnh Gia Ðịnh. Nguyên Tư Lệnh Phó quân đoàn IV. Là người hùng, khi còn là Tư Lệnh SD5BB, đã cùng với Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, lúc còn làm Tỉnh Trưởng Bình Long, đã giữ vửng An Lộc, trong suốt 68 ngày bị 4 SD Bắc Việt vây hảm, trong mùa hè đỏ lửa 1972. Từ năm 1973, Tướng Hưng về làm Tư Lệnh SD21BB, sau đó là Tư Lệnh Phó QDIV.

            Ngày 30-4-1975, sau khi Dương Van Minh đầu hàng giặc, Thiếu Tướng Nam tuẩn tiết tại văn phòng tư lệnh. Tướng Hưng về nhà, từ giả thân quyến, bạn bè và binh sĩ dưới quyền, rồi tự sát lúc 8 giờ 30 tối cùng ngày, để mãi mãi cùng với các anh hùng liệt nử, đi vào thanh sử VN muôn đời.

+ CHUẨN TƯỚNG LÊ NGUYÊN VỸ :

            Nguyên Tư Lệnh SD5BB, một SD dã chiến từ Bắc Việt di cư vào Nam từ năm 1955, trải qua nhiều vị tư lệnh nổi tiếng như Woàng A Sáng, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Văn Hiếu, Lê Văn Hưng và cuối cùng là Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ từ 1974 cho tới khi tàn cuộc chiến. SD5BB đã trấn giữ nhiều năm vùng đất, tuy sát nách Sài Gòn nhưng hung hiểm, bao gồm các tỉnh Bình Dương, Bình Long và Phước Long.

            Tướng Vỹ đả bảo toàn được lãnh thổ gần như nguyên vẹn, cho tới khi có lệnh đầu hàng. Noi gương tiền nhân bất khuất, trước toàn thể sĩ quan các cấp thuộc Bộ Tư Lệnh SD5BB tại căn cứ Lai Khê ố Bình Dương, Tướng Vỹ đã dùng khẩu súng lục Beretta 6,35 ly, từng đeo bên mình nhiều năm, để bắn vào đầu tự sát.

+ CHUẨN TƯỚNG TRẦN VĂN HAI :

            Ông xuất thân khóa 7 trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt, sinh năm 1926 tại Cần Thơ (tài liệu của Nguyễn Thanh Vân) thuộc Binh chủng Biệt Ðộng Quân và là một trong những cấp chỉ huy đã hoàn thành Trung tâm huấn luyện BDQ. Dục Mỹ vào năm 1961. Ðây là lò luyện thép đúng nghĩa, trong việc đào tạo quân nhân các cấp của binh chủng biệt động, chuyên hành quân rừng núi sình lầy. Trước khi trở thành Tư lệnh SD7BB. Chuẩn tướng Hai, đã giữ chức Chỉ Huy Trưởng BDQ/QLVNCH, góp phần lớn trong việc đánh đuổi cọng sản đệ tam quốc tế, ra khỏi thủ đô Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Ðịnh, trong trận Tết Mậu Thân 1968.

            Theo bước các cấp chỉ huy tại quân đoàn IV anh hùng là Thiếu Tướng Nam, tướng Hưng.. nên ông đã tự sát tại căn cứ Ðồng Tâm của BTL.SD7BB vào trưa ngày 30-4-1975. Thi hài ông đã được thuộc cấp, nhân lúc cọng sản đang say men vơ vét chiến lợi phẩm, mang về tận Sài Gòn giao cho gia đình an táng.

            Ðúng như lời nhận xét thật vô cùng chí lý của Thiếu tướng Mỹ George Wear : ' khi quân sĩ VNCH được chỉ huy bởi các cấp lãnh đạo cũng như tướng lãnh giỏi, đạo đức, thì Họ chiến đấu xuất sắc như bất kỳ một quân đội của các nước trên thế giới, mà điển hình nhất là trận đánh cuối cùng tháng 4-1975 tại Xuân Lộc-Long Khánh, đã làm cho tập đoàn lãnh đạo cọng sản, tại Bắc Bộ Phủ phải run sợ và la làng, vì bị thương vong và thiệt hại quá to lớn, hơn bất cứ một trận đánh nào đã xảy ra trong chiến cuộc Ðông Dương lần thứ 2 (1955-1975).'

            Câu nói trên đã được chứng minh một cách trung thực về khả năng tác chiến thần thánh của QLVNCH, trong viêc ngăn chân và tiêu diệt giặc Bắc xâm lăng. Nhưng tiếc thay những bậc sĩ quan các cấp, đạo đức tài giỏi thì bạc mệnh, đa truân cũng như những cấp lãnh đạo anh minh, lại vô quyền bất lực. Tình trạng VNCH như thế làm sao không mất nước vào tạy đệ tam cọng sản quốc tế ?!

            Nên 30-4-1975 muôn đời vẫn là ngày Quốc Hận của Dân Tộc Việt, cho dù ngày mai chế độ CSVN có bị sụp đỗ, thì các thế hệ Việt vẫn không bao giờ quên cột mốc thời đó trong dòng Sư Dân Tộc./.


Từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 4-2013
MƯỜNG GIANG