Hà Nội ngày 28 tháng 10, 2013 Kính gửi: Ông Tổng bí thư Đồng kính gửi: 175 ông bà ủy viên ban chấp hành TƯ Đảng CS Việt Nam Chi bộ đảng chúng tôi bao gồm những người cựu chiến binh, cựu thanh niên xung phong, cựu cán bộ viên chức, trong số chúng tôi, có người đã từng tham gia cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Nhiều người trong chúng tôi đã để lại trên chiến trường năm xưa một phần xương máu của mình. Trong chi bộ của chúng tôi cũng có không ít người từng được nhân dân gọi là "quan chức cao cấp". Chi bộ hưu trí của chúng tôi sinh hoạt định kỳ hàng tháng theo đúng chỉ đạo của đảng ủy cấp trên, và chúng tôi cũng tranh thủ các buổi sinh hoạt đảng để được trao đổi với nhau về con người, thời cuộc, về đất nước Việt Nam yêu dấu. Thưa các ông các bà, thừa nhận rằng trong rất nhiều năm, các đảng viên chúng tôi đã từng khá bằng lòng với cuộc sống của mình, đã nhìn nhận quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa của đất nước mình là một quá trình tất yếu. Trong một thời gian dài chúng tôi khá vui mừng với sự cải thiện rõ rệt trong đời sống vật chất và tinh thần, không những của các đảng viên trong chi bộ chúng tôi, mà nhìn chung trong phạm vi toàn xã hội. Về vật chất, thay vì ăn no mặc ấm là ăn ngon mặc đẹp, là tiện nghi sinh hoạt đầy đủ, hiện đại. Về tinh thần, đời sống tinh thần ngày càng được cải thiện, nhiều người dân, đã có thể thông qua các phương tiện hiện đại, tiếp cận tới các giá trị tinh thần đủ loại, không chỉ trong phạm vi đất nước, mà còn trong phạm vi trên toàn thế giới. Tầm nhìn được mở rộng, kiến thức được nâng cao…Phải thừa nhận rằng, so sánh với cuộc sống trong thời kỳ chiến tranh hay thời bao cấp, thì cuộc sống hiện nay đã có sự khác biệt rất lớn. Bộ mặt đất nước đã có nhiều thay đổi mạnh mẽ. Các đô thị và nhiều vùng nông thôn đã được đổi thay theo hướng hiện đại, văn minh…v.v. Trong một thời gian dài, chúng tôi đều có nhận định chung là có thể lúc nọ lúc kia, trong bộ máy của Đảng nhà nước tuy cũng có những sai lầm, thiếu sót, nhưng thành quả đạt được là không thể chối cãi, và chúng tôi có thói quen cho đó là nhờ sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của đảng…Và dường như hầu hết chúng tôi đều thỏa mãn và đồng tình với cách tuyên truyền, huấn thị của TƯ đảng về việc triển khai đường lối của đảng vào cuộc sống. Đa số chúng tôi đều không có nhiều thắc mắc với tiến trình đổi mới của đất nước, đặt lòng tin rất nhiều về sự thành công của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Chúng tôi đã từng tự hào là đảng viên đảng cộng sản! Thưa các ông các bà, trong một vài năm gần đây, tình hình kinh tế, xã hội của đất nước có nhiều biến động theo chiều hướng tiêu cực. Với những nguồn thông tin khách quan và rộng lớn mà chúng tôi thu thập được trong nước và trên thế giới, thì chợt nhận ra rằng, chúng ta đã tự ru ngủ nhau trong một thời gian quá dài. Hệ quả là chúng tôi với tư cách đảng viên cộng sản, đã tự cho phép mình làm quen với các tệ nạn nhũng nhiễu, tham nhũng xảy ra trong xã hội. Cứ bất kỳ ở đâu cán bộ có quyền là chỗ đó có tiêu cực. Các khái niệm phong bì, phong bao, lót tay dường như là một sinh hoạt không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngay, trong việc xin cho, kể cả những việc xin cho đã được quy định rõ ràng trong các văn bản pháp luật, pháp quy. Từ công an giao thông đến thuế vụ, môi trường, từ hải quan đến bệnh viện, đến trường học… hầu hết các nơi giải quyết chế độ chính sách, đâu đâu cũng phải "bồi dưỡng", phải "bôi trơn". Mọi người dân trong đó có các đảng viên chúng tôi dần quen với các hiện tượng này và đã trở thành những kẻ đồng lõa cho các hành vi hối lộ, tham nhũng. Nhưng thưa các quý vị, đến những năm gần đây, khi các hiện tượng tiêu cực tham nhũng đã trở thành những đại dịch, khi tình hình kinh tế, đạo đức xã hội có biểu hiện xuống cấp nghiêm trọng thì những người đảng viên chúng tôi mới dường như bừng tỉnh, tự hỏi chúng ta đang ở đâu? Vị trí nào trên thế giới? Chúng ta là ai? Và đang làm những gì?... Sự thật phũ phàng làm chúng tôi dần tỉnh ngộ khi biết rằng đất nước đang tụt hậu nhanh chóng về mọi mặt kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật, …so với các nước khác trong khu vực. Sự tụt hậu này rõ ràng không thể đổ lỗi cho chiến tranh, và cũng không thể đổ lỗi cho ảnh hưởng tư duy bao cấp của ý thức hệ cộng sản chủ nghĩa của các nước đàn anh như Liên Xô, Đông Âu. Họ đã bị sụp đổ gần 30 năm nay rồi. Chúng tôi thật sự đau xót khi không thể phủ nhận nguyên nhân của hiện tượng tụt hậu này chính là bắt nguồn ở những đảng viên chúng ta, không loại trừ những đảng viên đã về hưu như chúng tôi, những người tự coi là lực lượng tiên phong trong xã hội. Trước tiên, chúng tôi xin đưa ra những nhận định chủ quan của chúng tôi, về từng lĩnh vực quan trọng nhất trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa của đất nước để chúng ta suy xét một cách khách quan nhưng thẳng thắn hiện trạng mà chúng ta đang đối mặt: 1. Về kinh tế Theo thông tin từ nguồn tin chính thức của những nhà nghiên cứu của Đảng và nhà nước thì kinh tế Việt Nam hiện nay đang ở mức độ phát triển ngang với Singapore những năm 60 thế kỷ trước, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam tụt hậu tới 51 năm so với Indonesia, 95 năm so với Thái Lan và 158 năm so với Singapore (theo Báo cáo phát triển Việt Nam 2009 của Ngân hàng Thế giới) …. Nền công nghiệp chủ yếu vẫn ở mức độ gia công, chế biến thô sơ, lấy công làm lãi là chính. Về nông nghiệp, khai khoáng, chủ yếu vẫn là xuất hàng thô, hàm lượng giá trị gia tăng rất thấp, năng suất lao động bình quân xã hội là thấp. Cơ cấu nền kinh tế mất thăng bằng, lệch lạc, không bền vững, khả năng cạnh tranh của nên kinh tế thấp. 2. Đạo đức xã hội xuống cấp nghiêm trọng, các tệ nạn xã hội ngày càng phức tạp, tội phạm gia tăng, đạo đức ứng xử giữa con người với con người xuống cấp nghiêm trọng. Hình ảnh của người Việt Nam ngày càng xấu đi trước con mắt của bạn bè quốc tế, thậm chí trở thành vấn nạn của một số quốc gia khu vực như hiện tượng người Việt bỏ trốn, làm ăn phi pháp ở nước ngoài, người Việt ăn cắp, ăn trộm, làm nghề mại dâm phi pháp diễn ra tràn lan, đến mức độ nhiều cửa hàng nơi công cộng như ở Nhật, ở Hàn Quốc đã phải viết những biển cảnh báo bằng tiếng Việt! Điều này trở thành vết nhơ vô cùng đáng xấu hổ, không những đối với người đang sống như chúng ta mà còn làm ô uế đối với cả tổ tiên, cha anh, những người đã khuất. Văn hóa thì thiếu định hướng quy hoạch, phát triển theo kiểu xô bồ, ngẫu hứng, thua kém tụt hậu so với hầu hết các nước trong khu vực. Về an ninh trật tự an toàn xã hội thường xuyên xảy ra các vụ việc nổi cộm, khiếu kiện đông người, xung đột tranh chấp đất đai, thương nhân Trung Quốc thả sức vào lũng đoạn thị trường cài bẫy làm hại nền sản xuất, rối loạn đời sống của người dân , gây biết bao những hệ lụy, ảnh hưởng tới sức khỏe của người dân, trật tự và an ninh xã hội ở khắp nơi khắp chốn. Các tổ chức tội phạm hoành hành nhiều nơi. Tham nhũng đã trở thành một vấn nạn ngày càng nguy hại đối với đất nước. Đã qua biết bao kỳ đại hội Đảng, biết bao kỳ họp ban chấp hành TƯ, biết bao nghị quyết của TƯ đảng, của chính phủ, hiện tượng tham nhũng không những không được đẩy lùi mà còn ngày càng phát triển và thấm sâu vào mọi ngóc ngách của xã hội, từ cấp cao nhất đến cấp thấp nhất. Hiện tượng tham nhũng đã tạo ra một lối sống khá đặc thù của đất nước trong nhũng năm gần đây và là nguyên nhân của rất nhiều hiện tượng tiêu cực khác. Nó hủy hoại mọi thứ, từ kinh tế, đến đạo đức, đến văn hóa, đến an ninh quốc phòng…Hiện tượng chạy chức chạy quyền cũng là hệ quả tất yếu của tham nhũng. Có tham nhũng mới có chạy chức chạy quyền và ngược lại. Để được thăng chức, lên chức cũng mất tiền, ngay cả để xin được những vị trí có thể bắt nạt được dân là mất tiền, từ chân nhân viên văn phòng phường xã, đến vị trí của cảnh sát giao thông đứng đường cho đến thuế vụ, hải quan, vị trí nào càng dễ bắt nạt dân thì càng mất nhiều tiền để có được xuất làm việc. Các hợp đồng lớn nhỏ, đặc biệt lấy nguồn từ kinh phí ngân sách đều bị phết phẩy phần trăm. Theo chúng tôi biết, các hợp đồng đầu tư công cho các công trình cơ sở hạ tầng ở cấp địa phương và TƯ đều phải cộng tiêu cực phí ở mức độ 30% trở lên. Mọi khoản mua sắm trang thiết bị máy móc đều bị kê giá. Và động lực từ khoản phết phẩy đã đẩy nhiều đầu tư công vào lãng phí tiêu cực, hiện tượng chạy ngân sách trở nên phổ biến. Kính thưa các quý vị việc này đã ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả đầu tư, từ công trình lớn đến công trình nhỏ, đến năng xuất lao động, đến tài sản quốc gia … nhưng đặc biệt làm giảm hiệu quả quản lý nhà nước và hủy hoại nhanh chóng tới kỷ cương, tới đạo đức xã hội và cả hệ thống chính trị. Hậu quả sẽ rất nặng nề và lâu dài, triệt tiêu mọi sinh lực, nguyên khí của đất nước. Thí dụ trong báo cáo của chính phủ trước quốc hội trong kỳ họp Quốc hội khóa 13 có nêu ra con số nợ xấu trong ngành ngân hàng là khoảng trên 200 nghìn tỷ, nhưng chúng tôi nghe ý kiến từ một quan chức "dày dặn kinh nghiệm" đang tham dự kỳ họp Quốc hội này đưa ra nhận định một cách tưng tửng rằng con số khổng lồ này hoàn toàn không đáng ngại, có gấp đôi như thế vẫn không đáng ngại! Ông ta nhận định: "Người ta có thể giải quyết nhanh gọn trong vòng một vài năm khoản nợ xấu này bằng cách các ông to bà lớn, các nhóm lợi ích chỉ cần dành một nửa số tiền tham nhũng mà họ thu hoạch được theo thông lệ thì chỉ sau 1 đến 3 năm toàn bộ nợ xấu của VN sẽ được xử lý hết, vì đa số nợ xấu là do nhóm lợi ích gây ra, bao gồm các tập đoàn nhà nước và các nhóm lợi ích tư nhân đang được các quan chức lớn của đảng và nhà nước đứng đằng sau hỗ trợ bảo kê. Ngay cả tình trạng đóng băng bất động sản và hiện tượng trì trệ trong một số ngành sản xuất, đối với các nhóm lợi ích, cũng chỉ là hiện tượng nhất thời. Họ hoàn toàn có thể xoay chuyển được, khi mà các vị quan chức cấp cao của Đảng và nhà nước chống lưng cho các nhóm lợi ích này bằng cách tiếp tục hỗ trợ họ tham gia vào việc sử dụng các khoản đầu tư công dưới hình thức nhận thầu, đấu thầu hình thức ….một khi mà chính phủ xoay sở được tiền !." Mặc dù tiêu cực, tham nhũng lan tràn như vậy, nhúng chúng tôi vẫn muốn đánh giá thật công bằng các thành quả do chính sách của đảng và nhà nước mang lại. Xem cái gi tốt thì giữ lại, cái gì xấu phải loại bỏ. Song, lại một lần nữa, chúng tôi giật mình khi một thành viên trong chi bộ chúng tôi, vốn là cán bộ chủ chốt của ngành thống kê, đưa ra một con số là tổng số nợ công và tổng đầu nước ngoài trực tiếp và gián tiếp trong vòng khoảng 20 năm vừa qua như sau : - ODA không hoàn lại: 6,67 tỷ đô la Mỹ - Vay ODA ưu đãi: 30,83 tỷ đô la Mỹ - Các khoản vay ưu đãi từ nước ngoài: 21,27 tỷ đô la Mỹ - Các khoản vay được chính phủ bảo lãnh: 14 tỷ đô la Mỹ - Trái phiếu địa phương: 0,7 tỷ đô la Mỹ - Tổng dư nợ của doanh nghiệp nhà nước: 62 tỷ đô la Mỹ - Tổng đầu tư nước ngoài FDI: 222 tỷ đô la Mỹ - Đầu tư gián tiếp của nước ngoài: khoảng 30 tỷ đô la Mỹ Vậy chúng tôi thử hỏi các nhà kinh tế học rằng, với số tiền vay mượn và tiền vốn của nước ngoài khổng lồ như vậy, thì kết quả mà nhân dân và xã hội Việt Nam nhận được cho tới nay là thành tích đáng mừng hay chỉ là kết quả quá khiêm tốn. Phải chăng hiệu quả đầu tư của toàn xã hội là quá thấp? Chỉ số ICOR của VN so với các nước trong khu vực ra sao? Thua kém thế nào? Phải chăng một phần không nhỏ tiền đầu tư đã chảy vào túi bọn tham nhũng, vào lãng phí do sự kém cỏi vô trách nhiệm của giới lãnh đạo? Do vậy, có thể nhận định, dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của chính phủ trong thời gian vừa qua, thực chất là đã làm tiêu hao và lãng phí một số lượng của cải vật chất và tiền bạc khổng lồ của nhân dân và của đất nước! Những kết quả được thể hiện ở việc nâng cao đời sống nhân dân, hay sự phát triển về cơ sở hạ tầng, hay sự biến đổi bộ mặt các đô thị và một số khu vực nông thôn, xóa đói giảm nghèo …, chỉ là hệ quả đương nhiên phải có khi một số lượng tiền đầu tư khổng lồ như nói ở trên được đưa vào xã hội và nền kinh tế! Với số tiền khổng lồ đã được đầu tư như vậy trong những năm qua, nhưng rõ ràng tình hình kinh tế đất nước hiện nay vẫn chỉ dừng lại ở mức phát triển rất khiêm tốn, còn xa mới đạt được như các nước khác trong khu vực.Vào những năm 80 của thế kỷ trước tuy nền kinh tế đất nước còn rất nghèo nàn lạc hậu nhưng nợ công của nước ta lúc bấy giờ cón rất thấp, có thể nói là chưa đáng kể. Nhưng ngày nay con số này đang tăng lên đến chóng mặt, nếu tính đúng tính đủ thì đã vượt GDP! Với thực tế đáng buồn này có thể buộc chúng ta phải thừa nhận rằng trong hơn 2 thập kỷ vừa qua, chúng ta đã cùng lúc tham ô tiền của của quá khứ và ăn cắp tiền của tương lai! Hỡi ôi! Chúng tôi rất mong muốn nhân định này là sai vì nó quá phũ phàng! Nhưng nếu đúng, chúng tôi và tất cả các đảng viên chân chính trên toàn cõi Việt Nam phải đủ dũng cảm để đối mặt với sự thực đau đớn này để biết đường mà hành động! Xin các nhà khoa học, các nhà kinh tế cần phải có đánh giá lại một cách tổng quan, đầy đủ và khách quan để xác định một cách trung thực nhất rằng từ ngày đất nước đổi mới đến nay chúng ta đã bỏ ra bao nhiêu tiền và đã thu lại được gì?. Có tương xứng hay không? Chúng ta phải kiểm toán lại toàn bộ nền kinh tế. Người dân Việt Nam không thể chấp nhận cho những người lãnh đạo kém đức, kém tài tiếp tục lợi dụng ánh hào quang của quá khứ và bắt con cháu chúng ta phải è lưng trả nợ cho các hành vi tham nhũng, lãng phí và dốt nát. Thưa các quý ông quý bà, chúng tôi muốn gửi tới quý ông quý bà những suy nghĩ chân thành và thẳng thắn nhất mà theo chúng tôi là nguyên nhân đã dẫn đến hiện tượng đau lòng và vô cùng nguy hiểm này: Người ta nói thực tiễn là thước đo chân lý. Với những thực tế tụt hậu, xuống cấp nói trên, thì đảng cộng sản Việt Nam, và cụ thể là các thế hệ lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam trong hai thập niên vừa qua phải chịu trách nhiệm hoàn toàn. Không thể đổ lỗi cho khách quan. Tại sao ở các quốc gia khác, có những điều kiện về mặt địa lý, thiên nhiên kém ưu đãi hơn đất nước Việt Nam nhưng họ ngày càng vượt xa chúng ta.Vậy phải chăng những thành tích mà Đảng đã lãnh đạo đất nước trong hai thập kỷ qua đã đạt được là những "thành tích ngược"! Chúng tôi thật sự đau lòng thấy rằng đây là trách nhiệm của toàn Đảng, trong đó có chúng tôi. Sự kiêu ngạo, dốt nát, hiếu thắng, tư duy giáo điều và cả sự hèn nhát nữa là nguyên nhân cội rễ. Chúng ta luôn tự vỗ ngực là theo lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học Mác Lênin, nhưng trong thực tế, chính chúng ta là những kẻ duy ý chí nhất, chủ quan nhất, thiển cận nhất. Khi thực tiễn đã chối bỏ sự thành công của hệ tư tưởng chủ nghĩa xã hội tại Đông Âu và Liên Xô (cái nôi và thành trì của chủ nghĩa xã hội trước đây) thì rõ ràng những người cộng sản chân chính lẽ ra phải rút ra từ thực tế khách quan này những sai lầm, những bất cập trong học thuyết Mác Lênin và phải tự thay đổi mình nếu không nói là tự lột xác để đạt được mục tiêu tối thượng của chủ nghĩa xã hội là vì hạnh phúc của dân, vì sự phát triển của đất nước. Chúng ta vẫn ra rả hô khẩu hiệu "của dân, do dân, và vì dân", nhưng thực tế đã chứng minh rằng lợi ích của Đảng ngày càng tách rời lợi ích của nhân dân, của dân tộc và của đất nước. Đảng càng chậm đổi mới về lý luận bao nhiêu thì ngày càng bộc lộ sự áp đặt chuyên quyền về mặt tư tưởng lên xã hội bấy nhiêu. Như vậy tất yếu Đảng phải xây dựng và duy trì một bộ máy nhà nước kìm kẹp sự phát triển của đất nước, và hạn chế sự phát huy dân chủ, sáng tạo của người dân. Chúng ta đã càng ngày càng vi phạm một cách trắng trợn, thô thiển quyền và lợi ích của người dân. Đứng trước tình hình ngặt nghèo của nền kinh tế trên bờ sụp đổ, đại hội 6 của đảng đã phải (lúc đó đất nước vẫn còn chịu ảnh hưởng của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu) thay đổi một số quan điểm rất cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, đó là chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang việc chấp nhận áp dụng một khái niệm cơ bản của nền kinh tế thị trường. Từ việc cổ súy quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, đả phá quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, sang việc chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần. Các kỳ đại hội tiếp theo, khi mà phe XHCN tan vỡ, Đảng đã phải tiếp tục tháo gỡ rất nhiều khái niệm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, như việc tuy chưa loại bỏ hoàn toàn khái niệm bóc lột của chủ nghĩa tư bản, nhưng Đảng đã bắt đầu chấp nhận và làm theo cách quản lý của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cả ở tầm vĩ mô cũng như vi mô, và hơn thế nữa,chúng ta còn học hỏi cách tổ chức xã hội theo hướng nhân văn của nhiều nước tư bản phát triển. Cụ thể, cho đến những năm 2000, thì đảng cộng sản Việt Nam đã cho phép đảng viên được làm kinh tế tư nhân (theo khai niệm cũ tức là cho phép "bóc lột"). Mặc dù đảng cộng sản vẫn cố gắng bấu víu vào một số khái niệm cuối cùng của học thuyết Mác Lênin để muốn chứng minh rằng con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là đúng đắn bằng việc cổ xúy kinh tế nhà nước, mà cụ thể, theo nhiều người hiểu một cách thô thiển là ưu đãi các công ty, tập đoàn có vốn nhà nước, dành cho thành phần kinh tế này sự ủng hộ về mọi mặt: hành lang pháp lý, tiền vốn, sự độc quyền, thị trường…! Nhìn lại quá trình trải qua các đại hội Đảng, chúng ta đã rất vất vả tự trói vả tự cởi trói cho mình. Biết bao những cuộc hội thảo, tranh luận, và những cái giá phải trả trên thực tế, Đảng cộng sản VN về mặt tư tưởng và lý luận vẫn chuyển biến môt cách ì ạch, miễn cưỡng, hệ quả là trong suốt hai thập kỷ qua, không phải là Đảng tạo ra bước đi sáng tạo, đột phá để dẫn dắt đất nước đi lên, mà là thực tế đã kéo lê Đảng phải chạy theo! Cụ thể là chỉ khi trên thực tế đã phát sinh ra những tình huống, những đòi hỏi không thể làm khác được, buộc Đảng phải tự cởi trói tự loại bỏ đi những khái niệm, những nguyên tắc đã quá lỗi thời, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế và của các vấn đề chính trị, xã hội theo đúng quy luật của sự phát triển. Từ khi đảng cộng sản TQ đưa ra khẩu hiệu là "xây dựng chủ nghĩa xã hội theo kiểu TQ", mà các nhà lý luận không ai có thể định nghĩa được kiểu TQ là kiểu gì, thì đảng ta cũng đưa ra một khái niệm "xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng chủ nghĩa xã hội", một khái niệm rất mơ hồ, mà các nhà chính trị, các nhà kinh tế học, các chuyên gia, mỗi người giải thích theo một cách. Dường như khái niệm xã hội chủ nghĩa chỉ là động tác cố gắng vớt vát lại cái hơi hướng gọi là chủ nghĩa xã hội của chế độ. Chính vì cái lờ mờ và tùy tiện này, nên đất nước đã phải trả giá rất đắt. Nhiều vị lãnh đạo trong Đảng đã diễn giải "định hướng xã hội chủ nghĩa" tức là ưu ái các doanh nghiệp nhà nước, coi họ là "quả đấm thép", là "xương sống của nền kinh tế", và đương nhiên khi đã là quả đấm thép, là xương sống thì sẽ có những ưu ái khác biệt, khác hẳn các doanh nghiệp không phải của nhà nước, và đã tạo ra một môi trường theo kiểu "nuôi dưỡng kiêu binh", một đội ngũ doanh nhân và doanh nghiệp được chiều chuộng và bị lạm dụng cho các mục tiêu cá nhân của những vị lãnh đạo của Đảng và nhà nước , chúng dần dần biến thành những nhóm lợi ích bao gồm lãnh đạo đảng và nhà nước – doanh nghiệp nhà nước - các doanh nghiệp tư nhân trong phe cánh, để chia chác tài nguyên của đất nước, chia chác những ưu đãi, những thị phần quan trọng, chia chác những nguồn tài chính của đất nước…v.v. Những xu hướng vô cùng nguy hiểm và xấu xa này là được che đậy bởi khẩu hiệu định hướng xã hội chủ nghĩa !!! Lẽ ra, trong hoàn cảnh hệ thống chủ nghĩa xã hội trên thế giới sụp đổ, thì những người cộng sản VN nếu thực sự trung thành với lý tưởng của mình là vì dân vì nước thì phải tìm ra con đường mới để đưa đất nước tiến lên, đưa dân tộc trở nên giàu có. Nhưng rất tiếc trên thực tế thì "cái gọi là những người cộng sản" hoặc là do ấu trĩ, hoặc là do hư hỏng, đã cố tìm cách níu kéo những tư duy đã lỗi thời của quá khứ, và họ đã phản bội lại mục tiêu tối thượng của mình. Họ chỉ tìm cách ru ngủ mình, ru ngủ nhân dân bằng những khái niệm mơ hồ với những khẩu hiệu rỗng tuếch. Với thực tế này, Đảng cộng sản đã trở thành trở ngại của sự phát triển, của tiến bộ , là nơi nuôi dưỡng những ung nhọt. Chúng tôi thật sự choáng váng khi nhận biết được là các vị lãnh đạo của đảng, và đặc biệt là ông tổng bí thư, đã không nhận ra thực tế phũ phàng này mà lại tiếp tục ru ngủ mình và ru ngủ người khác bằng các bài thuyết giáo ngớ ngẩn dến mức kỳ cục. Xin hãy đọc lại bài phát biểu của TBT Nguyễn Phú Trọng trong chuyến đi thăm Cuba vừa qua. Chúng ta thấy sự lặp lại một cách lố bịch những tư tưởng giáo điều mà người ta chỉ sử dụng vào trước những năm 70 của thế kỷ trước. Chúng tôi không hiểu nổi tại sao người lãnh đạo cao nhất của đảng lại bất chấp mọi thực tế, bất chấp sự vận động của thực tế khách quan đến như vậy! Đội ngũ hàng nghìn những cán bộ tuyên huấn do ông Nguyễn Phú Trọng đứng đầu trong suốt mấy thập niên vừa qua đã làm gì, đã tạo được cái gì mới, để cho chủ nghĩa Mác Lênin có thể sống được với thực tế phát triển của nhân loại, ngoài việc lặp đi lặp lại như những con vẹt nghễnh ngãng với thời cuộc. Chẳng thế mà trong đợt góp ý sửa đổi hiến pháp năm 1992 vừa rồi, Đảng mà người đứng đầu là ông tổng bí thư đã sử dụng bộ máy tuyên truyền viên hùng hậu, cùng các phương tiện thông tin đại chúng trong toàn quốc để đưa ra đủ loại biện minh cho việc phải đưa vào hiến pháp nội dung "lực lượng vũ trang phải trung thành với đảng". Thật kỳ lạ! Sự ép buộc này chỉ có thể lý giải bằng một cách duy nhất, là các vị lãnh đạo cao cấp của đảng đang sợ những đảng viên của chính mình (trong hàng ngũ sĩ quan và hạ sĩ quan thì 100% là đảng viên) hiện đang làm việc trong các lực lượng vũ trang chống lại họ! Thật là hài hước và châm biếm! Và nếu họ sợ như vậy, tại sao lại phải phơi bầy lên một đạo luật cơ bản của đất nước các vấn đề nội bộ đáng đau lòng của Đảng. Phải chăng không còn cách nào khác để giải quyết các vấn đề nội bộ trong đảng, thì phải phơi nó lên hiến pháp trước toàn dân và trước cộng đồng quốc tế?! Và liệu quy định như vậy trong hiến pháp thì lực lượng vũ trang hay các đảng viên trong lực lượng vũ trang có từ bỏ việc chống lại lãnh đạo đảng không?! Sự lú lẫn của ông tổng bí thư lên đến cực điểm khi dám phát biểu công khai là Hiến pháp được xếp vị trí thứ hai sau cương lĩnh đảng!!! Nhận định này cực kỳ phi chính trị, cực kỳ thiếu hiểu biết, hóa ra khẩu hiệu "của dân, do dân, vì dân và vì tổ quốc" là láo toét! Thưa các quý vị, rõ ràng trên thực tế đã khẳng định tình trạng quy hoạch nhân sự của đảng đã bị hư hỏng nghiêm trọng từ rất lâu, bắt đầu từ việc quy hoạch các vị trí đứng đầu của đảng: Tổng bí thư, BCT, BCH TƯ. Chúng tôi thấy trong hội nghị TƯ 8 vừa rồi, các quý vị đã thành lập nhiều tiểu ban, trong đó có tiểu ban nhân sự để chuẩn bị cho đại hội 12. Cảm nhận của những đảng viên chúng tôi là lại bắt đầu một đợt chạy chức, chạy quyền rất náo nhiệt từ nay đến đại hội, mà BTC TƯ là sân khấu chính cho cuộc đua, giống như các kỳ đại hội trước đây. Kính thưa các quý vị, đảng đã yếu kém như vậy thì làm sao chính phủ mà 100% là đảng viên và là ủy viên TƯ lại không tham nhũng lãng phí được. Chúng ta lấy thí dụ của ông Dương Chí Dũng, ông Phạm Thanh Bình: họ phải tìm cách tạo dựng ra nhu cầu giả cho việc mua sắm, đầu tư để xin tiền nhà nước mua tàu cũ, mua ụ nổi để kê giá, để chia chác. Chắc các quý vị cũng thừa hiểu những loại như Dương Chí Dũng đang nhung nhúc trong bộ máy đảng và nhà nước ta hiện nay. Chúng ta hãy nhìn lại cái gọi là cuộc đấu tranh chống tham nhũng của Đảng trong suốt nhiều thập kỷ qua, và đặc biệt đã dâng lên thành cao trào được thể hiện trong các hội nghị TƯ 4, 5, 6 vừa qua. Thật khôi hài, ông TBT đã khởi động một chiến dịch có thể gọi là công khai và mạnh mẽ nhất chống tham nhũng. Nghị quyết TƯ 4, 5 được nhân dân và các đảng viên chúng tôi rất hy vọng vào sự kiên quyết của những bàn tay trong sạch của Đảng nhằm loại đi những ung bướu cấp tính trong bộ máy của Đảng va nhà nước, nhưng hội nghị TƯ 6, 7 và 8 đã cho một kết quả hoàn toàn ngược lại. Chúng tôi bảo nhau, nếu chi bộ chúng tôi mà có kiểu phê và tự phê giống như BCT và BCH TƯ đã làm trong hội nghị TƯ 6 thì chắc chắn đã bị đảng ủy cấp trên xếp vào chi bộ yếu kém và phải thay dổi lại ban lãnh đạo của chi bộ. Việc rõ ràng đến như vậy mà dường như TBT và nhiều vị ủy viên bộ chính trị trong BCH TƯ không cảm thấy xấu hổ, và vẫn giao giảng huấn thị toàn Đảng phải tổ chức phê và tự phê theo gương BCT! Chúng tôi xin phép được nói thẳng, khẩu hiệu phê và tự phê chỉ là khẩu hiệu đầu lưỡi, chỉ là sự lên gân hình thức trong một thời gian rất ngắn nhằm tự lừa dối mình và lừa dối nhân dân. Còn việc tự khen mình và khen lẫn nhau, kéo bè kéo cánh mới là bản chất, mới là sinh hoạt thường xuyên của Đảng, của ban lãnh đạo đảng va chính phủ hiện nay!!! Thưa các quý vị, Đảng kém như vậy, chính phủ tham nhũng như vậy, thì làm sao có thể đảm bảo được độc lập cho đất nước, làm sao có thể giữ vững được an ninh quốc phòng. Hãy nhìn vào hiện tượng Đảng ngăn cản người dân đứng ra tổ chức tưởng niệm những liệt sĩ đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía bắc là một ví dụ điển hình. Tại sao lại hèn nhát đến như vậy? Người dân Việt Nam không bao giờ muốn gây chiến, không ủng hộ chủ nghĩa dân tộc quá khích. Nhưng quyền được tưởng nhớ và tôn vinh những người con của đất nước đã hy sinh để bảo vệ tổ quốc là quyền tối thiểu của mỗi người dân cũng bị đe dọa tước mất, phải chăng đó là thông điệp của Đảng muốn gửi tới nhân dân rằng nếu Trung Quốc có xâm lược Việt Nam một lần nữa thì người dân hãy cúi đầu làm nô lệ, không được chiến đấu để bảo vệ tổ quốc nữa? Một hiện tượng nữa cũng phải nhắc tới để thấy rõ sự hèn nhát, kém cỏi của bộ máy lãnh đạo: trong dịp quốc tang đại tướng Võ Nguyên Giáp, việc ấn định ngày tổ chức lễ quốc tang là do lãnh đạo Đảng chủ động xác định, ấy vậy mà khi thủ tương Trung Quốc Lý Khắc Cường chưa kịp hạ cánh xuống sân bay Nội Bài thì chính quyền thành phố Hà Nội đã xua người đi kêu gọi nhân dân hạ cờ rủ xuống khi mà buổi lễ an táng vẫn chưa kết thúc. Tại sao lại phải hèn nhát đến như vậy? Thủ tướng Trung Quốc đến Việt Nam thì cũng phải biết tôn trọng người Việt Nam chứ. Nếu mà có tư duy kém cỏi, nhược tiểu như vậy thì mua tàu ngầm kilo, mua SU30, SS300, khu trục hạm Đinh Thiên Hoàng để làm gì? Muốn chống giặc ngoại xâm thì phải có lòng kiêu hãnh và khí phách chứ! Giặc Mỹ, giặc Pháp thua Việt Nam chỉ vì điều này. Nguyên lý sơ đẳng như vậy mà tại sao lãnh đạo đảng ngày nay không ý thức được? Các vị lớn tiếng nói đến việc xây dựng lòng tin chiến lược giữa các quốc gia, sao các vị không nghĩ tới việc xây dựng lòng tin với người dân của mình? Thưa các quý vị, Đảng không được lấy lý do là vì sự ổn định chính trị của đất nước làm cái cớ để làm những việc xằng bậy, yếu kém và vô liêm sĩ như vậy! Ổn định chính trị là rất cần thiết đối với mọi quốc gia, nhưng giữ ổn định là để đưa đất nước tiến lên, chứ không phải để kìm hãm kéo lui đất nước về mọi mặt như hiện nay! Chúng tôi rất chia sẽ với những câu kết của bút danh Bùi Minh Quốc khi viết về lễ quốc tang đại tướng Võ Nguyên Giáp trong bài Một vài suy nghĩ về "hiện tượng" những ngày quốc tang đại tướng Võ Nguyên Giáp rằng "Sẽ đến lúc sự giả dối, sự ngu dốt, sự hèn nhát và các toan tính bẩn thỉu sẽ bị quét sạch ra khỏi đất nước này." Thưa các ông các bà lãnh đạo đảng và nhà nước, các ông các bà có hiểu rằng nếu các ông các bà tiếp tục có thái độ thờ ơ với dân với nước như những ngày vừa qua thì chính người dân Việt Nam, trong đó có cả các đảng viên cộng sản như chúng tôi sẽ vùng lên, sẽ không để cho các ông các bà làm trò hề tổ chức đại hội đảng thêm một lần nữa, sẽ không có đại hội lần thứ 12 nữa đâu! Người dân Việt Nam sẽ không cho phép các ông các bà tiếp tục tham ô của quá khứ và ăn cắp của tương lai. Chúng tôi đã đều lớn tuổi, nhưng chúng tôi sẵn sàng hiến dâng phần đời còn lại của mình để giúp con cháu cùng hàng triệu người dân Viêt Nam anh hùng đứng lên quét sạch những loại rác rưởi của dân tộc, của đất nước! Trong tai chúng tôi bây giờ văng vẳng lời của bài hát diệt phát xít của Nguyễn Đình Thi "Diệt phát xít, diệt bầy chó đê hèn của chúng, tiến lên nền dân chủ cộng hòa. Đồng bào tuốt gươm vùng lên…" Các ông các bà có tin là một cuộc cách mạng giống như cuộc cách mạng tháng tám năm 1945 sẽ nổ ra rất sớm hay không? Chúng tôi yêu cầu lãnh đạo Đảng phải tự thay đổi lập tức ngay từ bây giờ, thậm chí phải tự lột xác, thì mới còn hy vọng vớt vát lại phần nào niềm tin đối với nhân dân, mới có cơ hội để chuộc lỗi với các sai lầm đã mắc trong thời gian vừa qua, mới không phụ với sự hy sinh của hàng triệu con người đã ngã xuống cho đất nước, cho dân tộc vì lý tưởng của đảng là độc lập, thống nhất tổ quốc, là xây dựng một đất nước hùng cường, một dân tộc hiển vinh, một đời sống dân chủ, tự do hạnh phúc…. Hà Nội, 28 tháng 10 năm 2013 Lê Trấn Gia |
30 October 2013
Gửi Ông Bà Ủy viên Ban Chấp hành TƯ Đảng CSVN
23 October 2013
Những chuyện "quái đản" ở Bệnh viện VN
Văn Quang - Viết từ Sài Gòn, ngày 21.10.2013
Những chuyện "quái đản" ở Bệnh viện VN
Nói đến chuyện bệnh viện ở VN nhiều quá rồi, thật tình tôi không muốn nhắc đến nữa. Nhưng còn những chuyện vượt quá sức tưởng tượng của con người giữa thời đại này và có lẽ ngay cả ở thời đại y khoa còn non trẻ lạc hậu cũng không ai dám ngờ tới. Ở đây không phải do khoa học kỹ thuật mà do chính con người. Những con người được dạy dỗ, đào tạo bài bản cả về trình độ chuyên môn đến lương tâm trong sáng và được mang danh là những nhà trí thức, được mọi người vì nể quý trọng. Nhưng tiếc rằng họ đã bỏ quên lương tâm là thứ mà bất cứ một con người nào từ anh vô học đến anh "đại trí thức" đều phải có mới xứng đáng làm người.
Nói thẳng ra, lâu nay đa số người dân đã có những bàn tán, kêu ca, nghi ngờ về sự phục vụ và cách "kiếm tiền" của các vị bác sĩ ở từng khoa trong 2 BV này, tất nhiên nói như thế không phải là tất cả các vị BS đều mang tiếng xấu, có chăng người tốt bị vạ lây. Chỉ cần vài ông thiếu lương tâm là người ta có thể nói đến cả cái BV đó rồi.
Nhưng trước khi tường thuật những chuyện động trời vừa được công bố của 2 BV lớn này, mời bạn đọc xem qua những chuyện "nhỏ" nhưng rất lạ, rất quái đản, tôi tin rằng các bạn khó có thể hình dung ra nổi. Mà nếu có ai kể lại, bạn có thể nghi anh ta "phịa" hoặc thứ chuyện khôi hài, bịa đặt với mục đích hay ác ý nào đó, chứ không thể có thật. Đây là những chuyện có thật 100% xảy ra trong những ngày tháng gần đây.
1. Sản phụ và chồng suýt tự vẫn vì BV thông báo nhầm nhiễm HIV
Theo lời kể của bà Phạm Thị Hương (phường Đông Thọ, TP Thanh Hóa), rạng sáng ngày 23/8/2013, con gái bà là chị Lê Thị Oanh (21 tuổi) có dấu hiệu chuyển dạ nên được gia đình đưa đến Bệnh viện Đa khoa thành phố Thanh Hóa chờ sinh. Bác sĩ đưa chị Oanh đi khám, lấy mẫu xét nghiệm, trong đó có thử nghiệm máu.
Chị Oanh vừa sinh xong thì gia đình nhận được hung tin, chị dương tính với HIV.
Bà Hương kể, "Nhận tờ kết quả xét nghiệm của con gái từ nữ y tá, tôi như chết lặng rồi òa khóc. Dù rất hoang mang nhưng chúng tôi cố trấn tĩnh không để con gái biết chuyện vì sợ cháu bị sốc mà nghĩ quẩn."
Các bác sĩ cũng bàn tán khiến mọi người xa lánh
Nhưng theo bà Hương, câu chuyện con gái bà bị nhiễm căn bệnh thế kỷ được các y bác sĩ trong bệnh viện bàn tán khắp nơi. Thậm chí nhiều bệnh nhân cùng phòng biết chuyện nên tìm cách xa lánh, khiến sau đó mọi chuyện đến tai chị Oanh.
Bà Hương tâm sự, "Con gái tôi từ khi biết tin mình bị nhiễm HIV cứ một mực đòi cắn lưỡi mà chết. Gia đình phải thường xuyên cử người túc trực bên giường bệnh để an ủi, khuyên giải. Mất nhiều ngày, cháu nó mới bình tâm trở lại nhưng tỏ ra rất đau đớn vì án tử lơ lửng trên đầu." Bà cho biết các bác sĩ đề nghị gia đình đem nhau thai về chôn, để ở viện sẽ làm ô nhiễm và tăng nguy cơ lây bệnh.
Trước tình trạng bệnh nhân có dấu hiệu ra nhiều máu, sức khỏe xấu đi, phần vì không tin kết quả xét nghiệm của Bệnh Viện Đa Khoa thành phố Thanh Hóa nên người nhà đã chuyển chị Oanh đến Bệnh viện Phụ sản Thanh Hóa để theo dõi đồng thời lấy máu đi xét nghiệm lại.
Xét nghiệm lầm
Tại Bệnh viện Phụ sản Thanh Hóa, qua hai lần xét nghiệm, kết quả đều khẳng định, bệnh nhân Lê Thị Oanh âm tính với HIV.
Anh Trọng chồng chị Oanh nói lúc đó tôi chỉ nghĩ đến việc
đưa vợ con ra sông tự tử
đưa vợ con ra sông tự tử
Trong tâm trạng rối bời, anh Lê Duy Trọng, chồng chị Oanh cho biết, những ngày qua, gia đình sống trong không khí vô cùng nặng nề. Anh Trọng nói, "Mấy bữa trước, trong đầu tôi cứ lởn vởn ý nghĩ sẽ đưa vợ con ra sông tự tử vì cuộc sống chẳng còn ý nghĩa gì. Hai bên nội ngoại và bạn bè đều nhìn vợ chồng chúng tôi với một cái nhìn ghẻ lạnh. Đi đâu tôi cũng nghe bàn tán về chuyện tai ương nhà mình, thật không tài nào chịu đựng nổi."
Chỉ là sai sót nhỏ
Trả lời báo chí về việc này, chiều 27/8, ông Lê Tiến Toàn, giám đốc Bệnh Viện Đa Khoa thành phố Thanh Hóa cho rằng đây là sơ suất đáng tiếc của nhân viên bệnh viện. Tuy nhiên ông này khẳng định đó "chỉ là sai sót nhỏ," sẽ chấn chỉnh, rút kinh nghiệm.
Ông Lê Tiến Toàn, Giám đốc Bệnh viện Đa khoa TP Thanh Hóa
cho rằng đây là "sai sót nhỏ"
cho rằng đây là "sai sót nhỏ"
Khi được đề cập việc bồi thường cho chị Oanh, bác sĩ Toàn cho rằng, "Hiện nay bệnh viện không có cơ chế bồi thường thiệt hại trong trường hợp chị Oanh. Việc bồi thường về vật chất thì không bởi bệnh viện không có kinh phí."
Thưa bạn đọc, bạn có thể ngờ được chuyện đó lại xảy ra trong một BV cấp tỉnh. Và hơn thế ông giám đốc BV lại cho rằng "chỉ là sai sót nhỏ." Vậy thế nào mới là sai sót lớn? Có lẽ là khi cả 2 vợ chồng anh Trọng, chị Oanh và cháu nhỏ cùng ôm nhau nhảy xuống sông tự vẫn mới là lớn? Câu trả lời vô trách nhiệm như thế thì BV ấy còn dẫn đến nhiều "sai sót nhỏ" nữa. Chưa biết chừng đã từ lâu, những sai sót này xảy ra nhưng người bệnh không biết hoặc chết rồi, không lên tiếng được nữa. Họ chỉ còn cách đợi các ông BS này ở đầu con đường đến địa ngục ở thế giới bên kia.
2. Gãy chân phải, bác sĩ bó bột chân trái
Câu chuyện thứ hai cũng ly kỳ không kém, có lẽ chỉ có ở VN mới làm được.
Anh Trần Văn Hợi (bố cháu Thạch) bị bệnh đang điều trị nên ngày 17/5, chị Phạm Thị Ca (mẹ cháu Thạch) đã nhờ người thân chở cháu Thạch đến Bệnh viện Đa khoa huyện Hương Sơn điều trị. Sau khi chụp X - Quang và làm các thủ tục gây tê, cháu Thạch được bó bột điều trị. Người trực tiếp điều trị cho cháu Thạch là bác sỹ chuyên khoa Trần Xuân Hạnh, Trưởng Khoa ngoại của bệnh viện.
Cháu Thạch gãy chân phải, bác sĩ bó bột chân trái
Sau khi bó bột xong, cháu Thạch được xuất viện, chuyển về gia đình điều trị ngoại trú. Tuy nhiên, khi về đến nhà, cháu Thạch hết thuốc tê nên kêu khóc ầm ĩ. Lúc này, chị Ca mới phát hiện ra sự việc, bác sỹ đã bó bột và điều trị nhầm chân cho con trai mình. Chân phải của cháu bị gãy nhưng bột lại bó ở chân trái. Lúc này, chị Ca chở con ra bệnh viện gặp lại bác sỹ. BS Hạnh đã thừa nhận lỗi "cẩu thả" và mong gia đình thông cảm. BS này lý giải, vì do vội vàng chuẩn bị cho một ca mổ sinh nên dẫn đến sơ suất.
3. Vỡ xương tay phải, bó bột tay trái
Anh Trần Ngọc Thạch (25 tuổi) ở phường Nghĩa Lộ, TP Quảng Ngãi cho biết, ngày 26-9, anh bị tai nạn, chụp phim bị vỡ xương thuyền tay phải và nhập viện điều trị tại Khoa Ngoại chấn thương Bệnh viện đa khoa Quảng Ngãi.
Thay vì bó bột tay phải, nhưng kỹ thuật viên bệnh viện lại bó bột tay trái. Sau đó bác sĩ khoa kiểm tra lại thấy anh Thạch bị bó nhầm nên đã chỉ định bó lại tay phải, nhưng nhân viên khoa này không chịu tháo bột tay trái bị bó nhầm cho anh Thạch mà cứ để luôn vậy. Thật khó hiểu!
Anh Trần Ngọc Thạch bị bó bột nhầm tay
Chỉ cần đọc ba "chuyện vặt" đó trong các BV ở VN, chắc chắn bạn đọc đã có thể hình dung ra được những nguy hiểm chết người rình rập đủ mọi loại bệnh nhân bởi sự "sai sót nhỏ" của các vị "lương y như từ mẫu" là thế nào. Nhưng những chuyện như vậy còn là "hạng nhẹ." Có nhiều chuyện nặng nề hơn, cả một tập đoàn "lãnh đạo" ở một số BV VN bất chấp tính mạng của bệnh nhân, vơ vét cho đầy túi tham. Gần đây đã có nhiều vụ được chính các nhân viên làm việc trong BV tố cáo, lúc đó "cơ quan chức năng" mới biết vào cuộc điều tra. Sau vụ tai tiếng rùm trời về vụ nhân bản giấy xét nghiệm tại BV Hoài Đức Hà Nội, lại đến vụ tráo đổi thủy tinh thể tại BV mắt Hà Nội cũng khiến dư luận của người dân VN vô cùng phẫn nộ.
Vụ đánh tráo thủy tinh thể
Theo bác sĩ Nguyễn Thị Thủy (làm việc tại BV Mắt Hà Nội), đã tố cáo BV này với 7 điểm khuất tất hay có thể gọi thẳng là gian lận. Ở đây, tôi chỉ tóm tắt một nội dung chính là việc BV này đã tráo đổi thủy tinh thể cho bệnh nhân đến mổ mắt kiếm lời bất chính nhiều tỉ đồng.
Từ năm 2011, BV Mắt HN đã mổ cho khoảng 3.000 ca (giá mỗi ca mổ khoảng 6.5 triệu đồng, chừng $308 Mỹ kim). Với số tiền này, lẽ ra người bệnh phải được dùng toàn bộ chất liệu của Mỹ. Nhưng trên thực tế, Giám đốc BV Vũ Thị Thanh đã cho đấu thầu các chất liệu rẻ tiền, từ dịch nhầy, đến thể thủy tinh nhân tạo để tráo đổi lúc phẫu thuật.
Mỗi ống dịch nhầy của Ấn Độ- 245,000 đồng /hộp (lẽ ra là của Mỹ- 600,000 đồng/ hộp), dùng cho một người bệnh, lại được chia ra, dùng cho 4-5 người bệnh (có khoảng 3,000 ca) bị tráo dịch nhầy. Chưa kể, trước khi mổ, bệnh nhân không được xét nghiệm HIV, viêm gan B, nguy cơ lây nhiễm rất cao. Ước tính trong năm 2011, có khoảng 3,000 ca mổ với số tiền thu được là 6.5 triệu đồng/ca... (VietNamNet, ngày 27/09)
Sáng 6-10-2012, Sở Y tế Hà Nội đã tổ chức gặp gỡ báo chí chính thức thông tin về sự việc đánh tráo thủy tinh thể tại Bệnh viện (BV) Mắt Hà Nội. Buổi họp báo có sự tham gia của ông Phan Đăng Long, phó trưởng Ban Tuyên Giáo Thành Ủy Hà Nội; Ban Giám đốc Sở Y tế Hà Nội; đại diện BV Mắt Hà Nội và BV Mắt Trung ương. Bà Nguyễn Thu Hương - Phó Giám đốc BV Mắt Hà Nội: BV đã "thanh minh thanh nga" rằng không có sự đánh tráo thủy tinh thể trong khi phẫu thuật cho bệnh nhân. Đây là sự hiểu lầm và đây là lỗi về hành chính của phòng tài chính.... Ông Nguyễn Văn Yên - Phó Giám đốc Sở Y tế Hà Nội cũng đồng ý với lời thanh minh này. Tuy nhiên có vài câu hỏi của giới báo chí, bà Phó Giám đốc đã từ chối trả lời.
Một sự việc lạ lùng hơn, không cho người tố cáo đối chất.
BS Nguyễn Thị Thu Thủy người tố cáo BV mắt Hà Nội
không được đối chất trong cuộc họp báo. Vì lý do gì?
không được đối chất trong cuộc họp báo. Vì lý do gì?
Cũng trong buổi họp báo sáng 6-10, người tố cáo là BS Nguyễn Thị Thu Thủy đã liên lạc với Sở Y tế mong muốn được đối chất để nói lên sự thực, nhưng Sở Y tế từ chối. Nói với phóng viên, chị Thủy cho biết đã đã đợi nhiều giờ liền để được vào cuộc họp nhưng nhưng bảo vệ không cho vào, mặc dù có một số phóng viên bảo lãnh.
Nói với giới báo chí, bác sĩ Thủy tiếp tục khẳng định có sự gian lận, tráo đổi thủy tinh thể của BV Mắt Hà Nội đối với người bệnh chứ không phải là sự chỉ định phù hợp cho bệnh nhân như giải thích của lãnh đạo BV. BS Thủy rất phẫn nộ, "Đây là một sai phạm nghiêm trọng có ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe và quyền lợi của người bệnh." Không dám cho người tố cáo đối chất trước công luận, phải chăng BV đã run sợ, đã gián tiếp công nhận những sự thật như đơn tố cáo? Chưa biết vụ này có "qua sông đắm đò" không.
Nhưng bỏ qua những tai tiếng của mấy BV ở Hà Nội. Trong thời gian này, người dân TP Sài Gòn đang bàn tán rùm beng về những sai phạm tầy đình của hai BV lớn nhất TP và của cả miền Nam VN như tôi đã đề cập ở phần đầu bài.
Nói với giới báo chí, bác sĩ Thủy tiếp tục khẳng định có sự gian lận, tráo đổi thủy tinh thể của BV Mắt Hà Nội đối với người bệnh chứ không phải là sự chỉ định phù hợp cho bệnh nhân như giải thích của lãnh đạo BV. BS Thủy rất phẫn nộ, "Đây là một sai phạm nghiêm trọng có ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe và quyền lợi của người bệnh." Không dám cho người tố cáo đối chất trước công luận, phải chăng BV đã run sợ, đã gián tiếp công nhận những sự thật như đơn tố cáo? Chưa biết vụ này có "qua sông đắm đò" không.
Nhưng bỏ qua những tai tiếng của mấy BV ở Hà Nội. Trong thời gian này, người dân TP Sài Gòn đang bàn tán rùm beng về những sai phạm tầy đình của hai BV lớn nhất TP và của cả miền Nam VN như tôi đã đề cập ở phần đầu bài.
Sai phạm động trời tại hai bệnh viện lớn tại Sài Gòn
Chiều ngày 7/10, lãnh đạo sở Y tế TP. Sài Gòn đã công bố kết luận chính thức thanh tra bệnh viện Chấn thương chỉnh hình và bệnh viện Bình Dân.
Theo tường thuật của phóng viên Quốc Ngọc (báo Dân Việt), việc thanh tra được thực hiện sau khi có đơn tố cáo từ các bác sĩ làm việc tại đây bày tỏ sự bất bình trước tình trạng bệnh nhân bị "móc túi" hàng tỷ đồng mỗi năm, nhưng không một ai dám lên tiếng.
Theo tường thuật của phóng viên Quốc Ngọc (báo Dân Việt), việc thanh tra được thực hiện sau khi có đơn tố cáo từ các bác sĩ làm việc tại đây bày tỏ sự bất bình trước tình trạng bệnh nhân bị "móc túi" hàng tỷ đồng mỗi năm, nhưng không một ai dám lên tiếng.
Nhóm lợi ích tại Bệnh Viện Bình Dân
Thanh tra Sở Y Tế TP Sài Gòn phát hiện hành loạt sai phạm trong việc liên doanh, liên kết với tư nhân bên ngoài nhằm đặt máy móc, thiết bị tại bệnh viện để thu lợi vào túi cá nhân hàng tỷ đồng.
Theo đó, mỗi bác sĩ khi chỉ định một bệnh nhân đi siêu âm, chụp X-quang... từ các máy liên doanh, liên kết này sẽ được hưởng 50,000 đồng, bác sĩ đọc kết quả hưởng 40,000 đồng.
Theo đó, mỗi bác sĩ khi chỉ định một bệnh nhân đi siêu âm, chụp X-quang... từ các máy liên doanh, liên kết này sẽ được hưởng 50,000 đồng, bác sĩ đọc kết quả hưởng 40,000 đồng.
Bệnh viện Bình dân nơi phát hiện hàng loạt sai phạm
Tất nhiên, một số thành viên ban giám đốc bệnh viện còn được hưởng số tiền chênh lệch lớn từ sự liên kết đặt máy này. Cụ thể "nhóm lợi ích" (hay nói cho rõ hơn đó là nhóm tham nhũng) gồm bác sĩ Nguyễn Chí Hùng - Giám đốc mới về hưu của Bệnh viện Bình Dân - được hơn 1,16 tỷ đồng, BS Nguyễn Văn Vĩnh - Phó Giám đốc bệnh viện - được hơn 723 triệu đồng, BS Vũ Lê Chuyên - Phó Giám đốc bệnh viện - được hơn 415 triệu đồng, bà Trần Thị Xuyến - Trưởng phòng Tài chính - được hơn 531 triệu đồng và BS Hoàng Vĩnh Chúc - Trưởng phòng Kế hoạch tổng hợp - được hơn 254 triệu đồng.
Bệnh viện vi phạm mua sắm trang thiết bị y tế không qua đấu thầu, gây lãng phí 53.7 tỷ đồng. Mua 2 máy tiệt khuẩn nhiệt độ thấp và 2 máy cắt đốt nội soi u xơ tiền liệt tuyến nhưng để "trùm mền" không sử dụng được, gây lãng phí hơn 1.7 tỉ đồng. (1 tỉ đồng VN tương đương $47,500 Mỹ kim).
Ngoài các sai phạm trên, Bệnh Viện Bình Dân còn thực hiện không đúng quy trình tuyển dụng lao động theo Bộ Luật Lao động; cho thuê chỗ làm bãi giữ xe, căng tin, đặt máy ATM, nhà vệ sinh, máy photocopy đều không có căn cứ pháp lý, đấu thầu; vi phạm về công tác đấu thầu, cung ứng thuốc; vi phạm công tác thực hiện quy chế chuyên môn trong khám chữa bệnh và công tác phòng, chống tham nhũng.
Thanh tra Sở Y Tế đã đề nghị thu hồi số tiền gần 3.4 tỷ đồng sai phạm nộp ngân sách Nhà nước, yêu cầu bệnh viện chấn chỉnh hoạt động, xem xét tổ chức kiểm điểm và xử lý trách nhiệm các cá nhân đã có sai phạm trong kết luận thanh tra.
Ăn phim X-quang, ép bệnh nhân mổ dịch vụ
Tại Bệnh Viện Chấn Thương Chỉnh Hình, qua kiểm tra 32,033 phim chụp X-quang trong các tháng 10-2010, tháng 10-2011 và tháng 6-2012, Thanh tra Sở Y tế TP Sài Gòn phát hiện có đến 6.688 phim sai, phim cắt xén để hưởng phần chênh lệch vật tư tiêu hao.
Bệnh nhân ngồi chờ đợi tại BV Chấn thương chỉnh hình
Cụ thể, khi có bệnh nhân được chỉ định chụp X-quang loại phim A (kích thước 35 x 43 cm) thì kỹ thuật viên sẽ phù phép cắt đôi phim khi chụp, cho ra hình ảnh X-quang với tấm phim chỉ còn kích thước 35 x 21,5 cm.
Ngoài "chiêu" cắt xén, kỹ thuật viên còn dùng thêm thủ thuật tráo đổi phim, bằng cách sử dụng phim B (kích thước 26 x 36 cm) có đơn giá 23,000 đồng/tấm thay cho loại phim A có đơn giá 42,000 đồng/tấm. Qua kiểm tra 1.126 phim chụp cho bệnh nhân ngoại trú còn lưu trữ trong tháng 10,2011, thanh tra phát hiện có 444 trường hợp đổi phim A thành B, chiếm tỉ lệ hơn 39,4%.
Bằng các thủ đoạn cắt xén, tráo đổi và ghép phim X-quang như trên, nhiều năm nay, một số cá nhân tại Bệnh viện Chấn Thương Chỉnh Hình đã "móc túi" nhiều tỷ đồng từ hàng chục ngàn bệnh nhân.
Theo Thanh tra Sở Y tế, ước tính số tiền sai lệch trên tổng số phim sử dụng hàng năm của bệnh viện là hơn 3.3 tỷ đồng. Riêng trong 5 tháng cuối năm 2011, việc cắt, ghép phim tạo ra số lượng "phim thừa" là 12,630 phim, tương đương gần 320 triệu đồng.
6.688 tờ phim "mang tội gian lận" bị thanh tra Sở tạm giữ
Do còn có những sai phạm chưa có cơ sở làm rõ, Thanh tra Sở Y tế đã đề nghị chuyển hồ sơ Bệnh viện Chấn Thương Chỉnh Hình cho Thanh tra TP Sài Gòn tiếp tục thanh tra toàn diện bệnh viện này.
Một loạt sai phạm ở Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương, Sài Gòn
Bên cạnh 2 "ông lớn," một BV nhỏ hơn là BV Nguyễn Tri Phương, Thanh tra Sở Y tế cũng xác định tình trạng gian lận phim xảy ra tại bệnh viện này. Có 2 bác sĩ gây ra "vụ việc tiêu cực" này đã phải bồi hoàn hơn 600 triệu đồng và đã nộp đơn xin nghỉ việc. (Rất tiếc tên tuổi của 2 vị bác sĩ "khả kính" này chưa được tiết lộ).
Nguồn tin mới nhất còn cho biết: Chỉ định mổ dịch vụ những bệnh nhân cấp cứu, các bác sĩ Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, còn bị cho là đã "rút ruột" hàng chục ngàn tấm phim để hưởng lợi.
Ngoài việc "ăn" 18,000 tấm phim, đến tháng 7/2012, khoa chẩn đoán hình ảnh còn bị Ban giám đốc bệnh viện phát hiện đã "rút ruột" 135 lọ thuốc cản quang.
Thanh tra TP Sài Gòn còn phát hiện bệnh viện này có tình trạng "nhập nhằng" giữa điều trị dịch vụ và điều trị công. Bệnh viện này đã thực hiện hoạt động dịch vụ "cả trong và ngoài giờ hành chính," bác sĩ vừa hưởng lương nhà nước vừa hưởng tiền công từ điều trị dịch vụ. Trong đó, tỷ lệ điều trị dịch vụ năm 2011 chiếm hơn 53%, năm 2012 khoảng 47% tổng số ca phẫu thuật thủ thuật toàn bệnh viện (cả trong và ngoài giờ hành chính).
Qua các vụ việc xảy ra tại các bệnh viện trên, Thanh tra Sở Y tế cho biết sẽ có kế hoạch tiếp tục thanh tra toàn diện các bệnh viện tại TP.Sài Gòn trong thời gian tới nhằm chấn chỉnh hoạt động tại các đơn vị này.
Nguồn tin mới nhất còn cho biết: Chỉ định mổ dịch vụ những bệnh nhân cấp cứu, các bác sĩ Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, còn bị cho là đã "rút ruột" hàng chục ngàn tấm phim để hưởng lợi.
Ngoài việc "ăn" 18,000 tấm phim, đến tháng 7/2012, khoa chẩn đoán hình ảnh còn bị Ban giám đốc bệnh viện phát hiện đã "rút ruột" 135 lọ thuốc cản quang.
Thanh tra TP Sài Gòn còn phát hiện bệnh viện này có tình trạng "nhập nhằng" giữa điều trị dịch vụ và điều trị công. Bệnh viện này đã thực hiện hoạt động dịch vụ "cả trong và ngoài giờ hành chính," bác sĩ vừa hưởng lương nhà nước vừa hưởng tiền công từ điều trị dịch vụ. Trong đó, tỷ lệ điều trị dịch vụ năm 2011 chiếm hơn 53%, năm 2012 khoảng 47% tổng số ca phẫu thuật thủ thuật toàn bệnh viện (cả trong và ngoài giờ hành chính).
Qua các vụ việc xảy ra tại các bệnh viện trên, Thanh tra Sở Y tế cho biết sẽ có kế hoạch tiếp tục thanh tra toàn diện các bệnh viện tại TP.Sài Gòn trong thời gian tới nhằm chấn chỉnh hoạt động tại các đơn vị này.
Hãy chờ những cuộc thanh tra tiếp theo
Hiện Thanh tra Chính phủ đang hoàn thiện kết luận 20 cuộc thanh tra nữa. Trong đó có các tập đoàn, các ngân hàng như: Thanh tra việc chấp hành quy định của pháp luật trong quản lý sử dụng vốn, tài sản tại Tập Đoàn Điện Lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Cao Su Việt Nam (VRG); thanh tra tại Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn (Agribank) và nhiều cuộc thanh tra khác đang được thực hiện.
Hãy chờ đợi những cuộc thanh tra này đưa dẫn tới đâu và những "quan lớn" nào sẽ bị vạch mặt chỉ tên cho nhân dân cả nước được biết. Người dân rất muốn biết những vấn đề cụ thể như ông Dương Chí Dũng, nguyên Chủ tịch Hội đồng Quản trị Vinalines, nguyên Cục trưởng Cục Hàng hải, Bộ Giao Thông Vận tải đã nâng khống số tiền mua ụ nổi để tham ô 1,6 triệu USD. Ngoài ra, ông Dương Chí Dũng bỏ túi 10 tỷ đồng trong thương vụ "béo bở" hơn. Đó là vụ mua u nổi cũ, 43 năm tuổi có giá thực tế hơn 2 triệu USD nhưng ông Dương Chí Dũng vẫn đồng ý mua với giá gấp gần 10 lần, bỏ túi hơn 10 tỷ đồng do bên môi giới "lại quả." Việc làm của ông Dũng gây thiệt hại cho nhà nước hơn 300 tỷ đồng.
Lần theo số tiền này, cơ quan điều tra phát hiện Dương Chí Dũng đã sử dụng số tiền tham ô để mua nhà cho "bồ nhí," người đã có con riêng với Dương Chí Dũng, 2 căn nhà, một căn tại tầng 29 tòa tháp B, tòa nhà Skycity, Láng Hạ, Hà Nội; một căn tại tòa nhà Pacific, Lý Thường Kiệt, Hà Nội. Nếu tính theo giá bán căn nhà cao cấp này trên thị trường, giá trị tài sản lên đến khoảng gần 17,4 tỷ đồng. Rất có thể hai căn nhà này sẽ bị phong tỏa kê biên. (Tôi sẽ tường thuật chi tiết vụ tham nhũng "vĩ đại" và chạy trốn rất bài bản này trong một bài khác).
Đó là điều cụ thể mà người dân muốn biết và có quyền được biết. Người dân lúc này không còn muốn nghe "một bộ phận cán bộ tham nhũng" hoặc một "một số nơi, một số địa phương yếu kém," nói theo kiểu "huề cả làng."
Hãy chờ đợi những cuộc thanh tra này đưa dẫn tới đâu và những "quan lớn" nào sẽ bị vạch mặt chỉ tên cho nhân dân cả nước được biết. Người dân rất muốn biết những vấn đề cụ thể như ông Dương Chí Dũng, nguyên Chủ tịch Hội đồng Quản trị Vinalines, nguyên Cục trưởng Cục Hàng hải, Bộ Giao Thông Vận tải đã nâng khống số tiền mua ụ nổi để tham ô 1,6 triệu USD. Ngoài ra, ông Dương Chí Dũng bỏ túi 10 tỷ đồng trong thương vụ "béo bở" hơn. Đó là vụ mua u nổi cũ, 43 năm tuổi có giá thực tế hơn 2 triệu USD nhưng ông Dương Chí Dũng vẫn đồng ý mua với giá gấp gần 10 lần, bỏ túi hơn 10 tỷ đồng do bên môi giới "lại quả." Việc làm của ông Dũng gây thiệt hại cho nhà nước hơn 300 tỷ đồng.
Lần theo số tiền này, cơ quan điều tra phát hiện Dương Chí Dũng đã sử dụng số tiền tham ô để mua nhà cho "bồ nhí," người đã có con riêng với Dương Chí Dũng, 2 căn nhà, một căn tại tầng 29 tòa tháp B, tòa nhà Skycity, Láng Hạ, Hà Nội; một căn tại tòa nhà Pacific, Lý Thường Kiệt, Hà Nội. Nếu tính theo giá bán căn nhà cao cấp này trên thị trường, giá trị tài sản lên đến khoảng gần 17,4 tỷ đồng. Rất có thể hai căn nhà này sẽ bị phong tỏa kê biên. (Tôi sẽ tường thuật chi tiết vụ tham nhũng "vĩ đại" và chạy trốn rất bài bản này trong một bài khác).
Đó là điều cụ thể mà người dân muốn biết và có quyền được biết. Người dân lúc này không còn muốn nghe "một bộ phận cán bộ tham nhũng" hoặc một "một số nơi, một số địa phương yếu kém," nói theo kiểu "huề cả làng."
Văn Quang
22 October 2013
Tại sao Phật giáo không thờ đấng Sáng Thế
Nguyễn Hoài Vân
Quan điểm phủ nhận về một đấng toàn năng và vĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana. Thái độ của Phật giáo đối với các khái niệm và ý tưởng về đấng sáng tạo và các vị thần được cho là ý niệm hão huyền, không mang lại hạnh phúc thực sự cho con người, không phù hợp với giáo lý của đức Phật vốn lấy con người làm đối tượng cao nhất trong việc giải quyết những nỗi khổ đau đang hiện hữu.
Trong văn học Phật giáo, xuyên qua giáo lý Vô ngã, không có một thực thể cố định (unsubstantiality) thì hẳn nhiên niềm tin vào một vị thần sáng tạo luôn luôn bị phản bác và từ chối, bởi vì Phật giáo là sự phủ định về sự vĩnh hằng và bất biến đối với việc giải thích nguồn gốc của thế giới như vũ trụ, linh hồn, thời gian v.v… Niềm tin về một đấng sáng tạo được đặt trong cùng thể loại như những quan điểm sai lầm về mặt đạo đức, đặt thân phận con người dưới sự an bài của đấng vô hình như là định mệnh tuyệt đối và không thể thay đổi, và dẫn đến sự nguy hại lâu dài cho nền móng xã hội do tác động đến những giá trị nhân bản của đạo đức.
Vì tin tưởng vào một đấng sáng tạo Brahma mà hằng nghìn năm xã hội Ấn Độ đã duy trì sự phân chia bốn giai cấp, gây nên sự chia rẽ trầm trọng, mỗi giai cấp đều tùy thuộc vào ý chí của đấng Phạm thiên, cố định vị trí ở body của Phạm thiên: giai cấp Bà la môn (Brahman) được cho là con chính thống của Phạm thiên, sinh ra từ miệng Phạm thiên là chủng tánh tối thượng an hưởng cuộc đời sung sướng.Giai cấp Sát đế lỵ (Kshastriya) sinh ra từ cánh tay Phạm thiên là giai cấp hoàng tộc, thay mặt cho Phạm thiên nắm giữ quyền hành thống trị. Giai cấp Vệ xá (Vaisya) được cho là sinh ra từ bắp vế Phạm thiên, là giai cấp thương gia, nông phu và thợ thuyền phụ trách về kinh tế. Giai cấp Thủ đà la (Sùdra) được cho là sinh ra từ gót chân của Phạm thiên được cho là hạng bần cùng hạ tiện, và chỉ làm nô lệ suốt đời cho các giai cấp trên.
Sự thị hiện của đức Phật đã làm đảo lộn mọi giá trị cố hữu, thay vào đó Ngài mở ra cánh cửa mới của sự nhận thức khi Ngài chối từ về sự tồn tại của Brahma; điều này được bàn bạc trong nhiều kinh văn Phật giáo. Đoạn kinh Tevijja sau đây là cuộc đối thoại giữa đức Phật và Bà la môn Vàsettha về đấng Phạm thiên:
"…Này Vàsettha, như vậy ngươi nói không có một Bà la môn nào trong những vị tinh thông ba tập Vedà đã tận mặt thấy Phạm thiên – không có một tôn sư nào của các Bà la môn tinh thông ba tập Vedà đã tận mặt thấy Phạm thiên, không có một đại tôn sư nào của các Bà la môn tinh thông ba tập và đã tận mặt thấy Phạm thiên – không có một Bà la môn nào cho đến bảy đời đại tôn sư, tôn sư của những Bà la môn tinh thông ba tập Vedà đã tận mắt thấy Phạm thiên, trong những tu sĩ thời cổ, trong các Bà la môn tinh thông ba tập Vedà, những vị sáng tác các thần chú, những vị trì tụng thần chú mà xưa kia những thần chú được hát lên, được trì tụng, được ngâm vịnh và ngày nay những Bà la môn tinh thông ba tập Vedà cũng hát lên, trì tụng và giảng dạy như các vị Atthaka, Vàmaka… không có một vị nào đã nói: 'Chúng tôi biết, chúng tôi thấy Phạm thiên ở đâu, Phạm thiên từ đâu đến, Phạm thiên sẽ đi đâu'. Như vậy các Bà la môn tinh thông ba tập Vedà đã nói: 'Chúng tôi không biết, chúng tôi không thấy con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên, nhưng chúng tôi thuyết dạy con đường ấy: 'Đây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo'. Này Vàsettha, Ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy thời có phải lời nói của những Bà la môn tinh thông ba tập Vedà là không chánh xác, hợp lý…"
Sự tin tưởng hão huyền này đã gây nên sự cuồng tín, không khoan dung, nâng cao tự ngã; thông thường hay gây ra sự căm thù và những bạo lực khi người khác không có cùng niềm tin và quan điểm với mình.
Xuyên qua nhiều thế kỷ, triết học Phật giáo đã trình bày các lập luận chi tiết bác bỏ học thuyết của một vị thần sáng tạo. Nó sẽ được quan tâm để so sánh những việc này với những cách mà các triết gia phương Tây đã bác bỏ các thông tin chứng minh thần học về sự tồn tại của đấng sáng tạo.
Đối với một vài người tin tưởng một cách nghiêm túc hơn thì ý tưởng về một đấng tạo hóa chỉ là một lập trường chỉ để giải thích các sự kiện bên ngoài như nguồn gốc của thế giới mà họ không thể hiểu thấu. Đối với y, nó là một đối tượng của đức tin có thể tạo ra cho một cảm giác mạnh mẽ bên cạnh sự hiện diện an ủi của đấng tạo hóa và sự gần gũi với chính mình, chẳng hạn như ấn tượng thời thơ ấu, hình ảnh huyền thoại như những ông Bụt và cô Tiên đi vào truyền thống, học đường, và môi trường xã hội đã tác động vào bề mặt của vỏ não và tạo nên những hình ảnh của tư tưởng mà tín đồ của các tôn giáo đã có một lề lối khái niệm chân thành nhất; một phân tích phát hiện gần đây đã hiển thị rằng "kinh nghiệm về đấng sáng tạo" đã không có nội dung cụ thể hơn điều này.
Tuy nhiên cuộc sống và tác phẩm của các nhà thần bí của tất cả các tôn giáo lớn đã chứng minh cho kinh nghiệm của họ có ảnh hưởng lớn, trong đó việc thay đổi đáng kể được thực hiện ở chất lượng của ý thức, sự cảm thụ sâu xa trong lời cầu nguyện hay thiền định có thể đánh động đến chiều sâu và ảnh hưởng trên mặt rộng ý thức xuyên qua cảm hứng truyền trao của sự hân hoan và hạnh phúc đi từ họ. Với cảm thụ tuyệt vời như vậy, các nhà thần bí tin rằng kinh nghiệm của mình là biểu hiện của thần thánh, là hiệp thông với đấng tạo hóa, nhiệm vụ của họ là trung gian giữa thượng đế và con người… với những ấn tượng sâu sắc được xem như là thần bí và họ đã gõ cửa thần học để xác định sự "hiệp thông" đặc biệt của mình. Giả định này là khá dễ hiểu, kinh nghiệm huyền bí cũng chỉ là những đặc trưng tăng, giảm hoặc loại trừ tạm thời, biểu hiện làn sóng đa phương trình của ý thức, nhận thức và suy nghĩ không ngừng nghỉ trong những tầng số rung động của tâm. Thật là thú vị cần lưu ý, tuy nhiên, các nỗ lực của hầu hết các nhà thần bí lớn phương Tây liên quan đến kinh nghiệm thần bí của mình để các tín đồ chính thức của các nhà thờ công nhận kết quả của họ trong giáo lý thường được xem xét và nghi ngờ đối với chính thống, nếu không được coi là hết sức dị giáo.
Phật giáo, những hành giả khi đã thâm sâu trong thiền định họ nhận diện các yếu tố thể chất và tinh thần cấu thành kinh nghiệm của mình trong ánh sáng của mọi hiện hữu qua ba đặc điểm, đó là vô thường, đau khổ, và sự vắng mặt của một cái tôi (vô ngã); điều này được thực hiện chủ yếu để sử dụng độ tinh khiết thiền định và sức mạnh của ý thức cho mục đích cao nhất: giải phóng bản ngã từ cái thấy sâu sắc; việc này giúp hành giả thoát khỏi sự tràn ngập ảo giác bởi bất kỳ những cảm xúc và ý nghĩ không kiểm soát được đi từ bởi kinh nghiệm của họ, và do đó sẽ có thể tránh đi sự lừa dối của kinh nghiệm ý thức.
Một thiền giả tốt trong Phật giáo, thông qua những trải nghiệm thiền định mà những gì y có là cái thấy không tùy thuộc, không có vị trí cố định để xác lập, như thác nước trôi chảy không ngừng, không có đối tượng hoặc chủ thể định vị, do đó trạng thái thần bí cao nhất của thiền giả không cung cấp cho sự tồn tại của một đấng tạo hóa duy nhất hay một vị thần khách quan điều động và chi phối cá nhân.
Do vậy, Phật giáo được xem như là "chủ nghĩa vô thần" đối với những người có tư tưởng độc lập hay những nhà Hữu thần, chỉ vì Phật giáo không tin tưởng vào một đấng sáng tạo, toàn năng và vĩnh cửu, đúng hơn đó là sự sáng tạo từ ý tưởng con người. Tuy nhiên quan niệm về "vô thần" trong Phật giáo không đồng với "vô thần" của những nhà thuần túy Duy vật hay Duy vật biện chứng. Học thuyết Phật giáo là sự hòa hợp giữa tâm và vật. Phật giáo không tán thành triết lý vật chất hủy diệt thuần túy (annihilationism-ucchedavata), đúng hơn nó là một lý thuyết sai lầm. Sáu cõi luân hồi và các cảnh giới Thánh hiền thanh tịnh đủ để chứng minh rằng quan điểm của Phật giáo không phải là sự hủy diệt hoàn toàn sau khi chết, mà là sự thay đổi không ngừng. Mỗi chúng sinh là một đấng sáng tạo muôn vẻ cho chính mình xuyên qua sự vô hạn của kiếp luân hồi. Học thuyết về "nghiệp" (karma) là chu kỳ của sự tạo tác và hình thành của tâm và vật đặt căn bản trên giáo lý nhân quả, tác động và chi phối sự hiện hữu của chúng sinh. Đức Phật không cung cấp một chủ nghĩa Hư vô, đồng nghĩa với đau khổ và không còn có con đường hy vọng. Chủ thuyết "không" (empty) trong đạo Phật chỉ là sự từ chối của bản ngã bất biến đã gây nên đau khổ cho con người. Ngược lại, nó là một giáo lý cứu rỗi (Niyyanika-Dharmma), giải thoát (vimutti), hoặc Niết bàn (Nirvana), là trạng thái hủy diệt hoàn toàn của tham, sân, si, những khổ đau của ngọn lửa dục vọng điên cuồng đang thiêu đốt chúng sinh. Tuy nhiên Niết bàn không phải là cảnh giới có chủ thể và đối tượng, vì vậy nó không đồng với hình thức và ý tưởng tạo lập của một đấng vĩnh hằng.
Phật giáo không phải là một kẻ thù của tôn giáo như là chủ nghĩa vô thần được thấy. Phật giáo, thực sự là kẻ thù của "không" (sự hủy diệt hoàn toàn). Người Phật tử là những người đại diện cho kiểu mẫu về các giá trị đạo đức, tinh thần và văn hóa trong các quốc gia châu Á. Tuy nhiên, chúng ta có thể không thể nhắm kín đôi mắt của mình với các khái niệm về đấng sáng tạo-đã sử dụng quá thường xuyên thông qua với những con người quyền lực, tàn nhẫn…nhân danh tình yêu của đấng toàn năng đã gây nên sự chia rẽ, hận thù và tiêu hủy văn hóa bản địa.Những nghiên cứu và thể hiện quan điểm bất đồng chính kiến đã bị cản trở và dập tắt trong danh xưng và tham vọng điên rồ cho sự phục vụ đấng tối cao đã và đang gây đau thương không ngừng cho nền hòa bình thế giới.
Không cần sự thưởng phạt của một đấng tối cao, giá trị đạo đức của Phật giáo trên căn bản năm giới cấm và mười điều thiện đã cung ứng cho quốc gia và xã hội một nền tảng đạo đức viên mãn. Không mù quáng và ảo tưởng trong niềm tin, dựa trên triết thuyết hợp lý sâu sắc và thí nghiệm từ sự thực hành mang tính khoa học, Phật tử tôn thờ đức Phật là bậc Thầy (Bổn sư) giác ngộ, một vị Thượng đế của lòng từ bi và trí tuệ. Họ nhìn nhận đức Phật như bản chất tiềm ẩn trong chính mình, đó là điểm khác biệt giữa Phật giáo và các tôn giáo khác.
Mặc dù Phật giáo được xem như là một tôn giáo, tuy nhiên lý thuyết, triết học và sự thực hành của nó vượt ra ngoài phạm vi tôn giáo; Phật giáo đặt con người làm mục tiêu thể nghiệm sự khổ đau và sự giải thoát khổ đau ngay trong đời sống thay vì khái niệm hão huyền về một đấng Sáng tạo toàn năng và vĩnh cửu. Vì vậy, Phật giáo có thể dung nhiếp với các tôn giáo khác, tuy nhiên các tôn giáo khác không thể hợp nhất với Phật giáo; đó là một thực tế không thể tranh cãi./.
Nguyễn Hoài Vân
20 October 2013
“Trời” sinh Võ Nguyên Giáp để làm gì?
Võ Nguyên Giáp đã về với đất giữa những tiếng tung hô về "thiên tài quân sự" và "phẩm cách thánh nhân" của ông, giữa những lời phân trần biện minh cho thất bại chính trị của ông, cả những nhận xét điềm đạm hay phê bình gay gắt nhất đối với ông. [1] Không nhất thiết phải đóng góp thêm cái không khí ồn ào khi "tang lễ quốc gia" sặc mùi đồng bóng vừa mới bị cắt ngang một cách chưng hửng ngay tại thủ đô để tiếp khách giống như là… chạy cưới, tôi vẫn cảm thấy thiếu thiếu, vẫn còn có một câu hỏi chưa có lời đáp ở nhân vật này. [2]
Câu hỏi đó là: "Trời" sinh ra Võ Nguyên Giáp để làm gì?
Đã ca ngợi ông là một "thiên tài quân sự", là "thánh nhân" thì phải thừa nhận chuyện "Trời sinh": sinh ông ra, rồi phú cho ông một "thiên tài", một phẩm cách "thánh nhân", ắt hẳn "Trời" đã sắp đặt sẵn cho ông một chương trình, một mục đích và ý nghĩa nào đó, cho đời. Như thế thì cái ý nghĩa "thiên mạng" đó phải thể hiện trong sự nhất quán, trong mối quan hệ tương liên giữa những chặng đời mâu thuẫn mà những kẻ xưng tụng ông vẫn ấm ức gọi là "nghịch lý", cái "nghịch lý" của cuộc đời khởi đầu vinh quang trong vai trò "cầm quân" tại chiến trường Việt Bắc để rồi tiếp tục một cách ê chề với những tháng năm "cầm quần" giữa những mưu mô chính trị hậu cung tại Hà Nội, nói theo một câu ca dao hiện đại. [3]
Sự nhất quán giữa hai thái cực "cầm quân" và "cầm quần" ấy có thể nhìn qua học thuyết của Thomas Malthus, nhưng đầu tiên là "thiên tài" và phẩm cách của ông Giáp.
Chúng ta thán phục một người là có "tài" khi kẻ đó làm được những điều mà kẻ khác làm được nhưng làm bằng cách nhanh hơn, với cái giá rẻ hơn mà có thể đem lại kết quả hay hơn. Chúng ta ngưỡng mộ một bậc "thiên tài" khi kẻ đó làm được những điều độc sáng mà chưa ai từng làm được hay, không chỉ hơn khối kẻ bình thường khác qua cách làm nhanh nhất, bằng cái giá rẻ nhất nhưng mang lại kết quả mỹ mãn nhất mà còn có thể, qua cách ấy hay việc ấy, để lại một dấu ấn hay những ý nghĩa khó phai nhạt qua những ảnh hưởng đến người khác, ít ra là trong lĩnh vực của mình.
Nếu "thiên tài" của Võ Nguyên Giáp kết tinh ở chiến thắng Điện Biên Phủ "lẫy lừng" thì cái tài trời phú ấy không thể chấm hết sau phút giây bắn pháo hoa mừng chiến thắng mà còn phải để lại những ý nghĩa "lẫy lừng" nào đó, ít nhất là cho riêng vùng đất ấy, và ít ra là trong đường lối quân sự sau đấy.
Ông là "thiên tài quân sự", thế nhưng với những đồng chí thuộc vai vế đàn em "thiên tài" ấy chẳng có một tý ty trọng lượng, chẳng để lại một dấn ấn hay ý nghĩa hay ảnh hưởng nào, ngay trong lĩnh vực quân sự. Gạt ông ra ngoài trong những quyết định trọng đại về chiến tranh, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đã không đếm xỉa gì đến "thiên tài" của ông. Chiến dịch Mậu Thân, họ chỉ báo trước có một ngày. Chiến dịch Quảng Trị, khi xương cốt bộ đội trắng cả đáy dòng Thạch Hãn, họ cũng bỏ ngoài tai những ý tưởng chiến thuật của ông. [4]
Và "chiến thắng lẫy lừng" ấy cũng chẳng mang lại một ảnh hưởng tích cực nào cho những vùng đất hay con người đã trực tiếp và gián tiếp trả giá. Không nói xa xôi đến "đất nước" hay "dân tộc", gần ba phần tư thế kỷ sau ngày chiến thắng, những "an toàn khu", những "căn cứ địa", những "chiến khu gió ngàn" nuôi dưỡng nên chiến thắng ấy vẫn tiếp tục là những vùng đất đói nghèo nhất nước và, phần đông, thế hệ trẻ lớn lên ở đó, muốn đổi đời thì chỉ có thể, hoặc ngược sang Lào theo những "cung đường ma túy", hoặc bỏ xuôi làm thuê hay làm đĩ. [5]
Giới hâm mộ Võ Nguyên Giáp viện dẫn sự thất thế chính trị để biện minh cho sự vô can của ông trước giá đắt trong Mậu Thân 1968 và Quảng Trị 1972-1973, thế nhưng cái giá của Điện Biên Phủ 1954 đâu có rẻ chút nào? Bao nhiêu nông dân cầm súng đã gục ngã, bao nhiêu tài nguyên đã tiêu tốn và những món nợ "xã hội chủ nghĩa anh em" với hậu quả nhãn tiền về sự phụ thuộc? Mà, xét cho cùng, nếu tướng tài là vị tướng không cần đánh mà có thể lấy được thành thì, chẳng cần đến những "chiến công chấn động thế giới" kiểu ấy, những cựu thuộc địa có cùng hoàn cảnh tại Á châu không chỉ đã giành lại độc lập với cái giá rẻ hơn mà, hơn thế nữa, còn vươn tới những kỳ tích hậu thuộc địa lẫy lừng hơn, rất nhiều.
"Chiến thắng lẫy lừng" ấy là một món hàng xa xỉ, cực kỳ hoang phí, không chỉ hoang phí bằng xương bằng máu mà còn hoang phí bằng sự tụt hậu và phụ thuộc, phụ thuộc ngay vào kẻ thù truyền kiếp, kẻ thù đã xâm lăng đất nước chúng ta nhiều lần hơn ai hết, chiếm đóng đất nước lâu dài hơn ai hết.
Cái chiến thuật thí thịt người chẳng có gì độc đáo sáng tạo về mặt quân sự của ông Giáp, gợi nhắc một giai thoại về Napoléon Bonaparte khi bị một viên thống chế dưới quyền thắc mắc trước một quyết định thí quân: "Chỉ một đêm của Paris là đủ". Chỉ một đêm thôi, và riêng tại Paris thôi, sẽ có bao nhiêu cặp nam nữ cuồng nhiệt quấn quýt vào nhau, sẽ có bao nhiêu tinh trùng bắn ra, sẽ có bao nhiêu tinh trùng tiến về bắt rễ trong buồng trứng để từ đó mở ra một mầm sống mới và, với Napoléon, thế là đủ. Đủ để bù lại những sinh mạng bị ông ta vung vãi trước trận địa mà đối phương đã bày bố sẵn sàng.
Như thế phải có một điểm nhất quán nào đó trong "vinh quang" của vị "anh hùng chiến thắng" vào năm 1954 với sự cam chịu thụ động đến bạc nhược của vị "thống chế đặt vòng" vào năm 1983, khi ông ta trở thành "Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Dân số và Sinh đẻ có kế hoạch". [6]
Để hiểu được sự nhất quán ấy, có lẽ, phải nhắc qua học thuyết của Thomas Malthus (1766 – 1834), một giáo sĩ và là một nhà kinh tế học nối tiếng người Anh.
Năm 1798 Malthus xuất bản cuốn khảo luận An Essay on the Principle of Population (Một tiểu luận về nguyên tắc dân số) và, thế là, những lời công kích nổi lên. Để đáp trả những lời chỉ trích và củng cố lý thuyết của mình, từ năm 1799 đến 1802 Malthus thực hiện chuyến du khảo năm năm xuyên suốt Âu châu để rồi tái bản quyển sách trên với sự minh định rằng quan điểm chính vẫn không hề thay đổi. Vẫn bị công kích dữ dội nhưng vẫn thu hút sự chú ý rất đặc biệt và cuốn sách ấy của Malthus đã đuợc tái bản đi, tái bản lại nhiều lần.
Điều khiến Malthus vừa bị công kích vừa lôi cuốn sự chú ý là cách phân tích nguyên nhân của nạn bần cùng như là hậu quả tất yếu của tình trạng quá tải dân số. Theo Malthus thì dân số tăng theo cấp số nhân trong khi kinh tế chỉ tăng trưởng theo cấp số cộng, và khi nền kinh tế không đáp ứng nổi nhu cầu của một dân số quá đông thì bần cùng là hệ quả tất yếu. Vấn đề là làm thế nào để giải quyết nạn ấy và, theo Malthus, khi con người bó tay, không "giải quyết" được sự bùng nổ dân số, thì "tự nhiên" sẽ bắt tay thực hiện. Khảo sát thật kỹ các xã hội trong suốt chiều dài lịch sử của nó, Malthus đi đến kết luận rằng các biến cố lớn liên quan đến nạn đói, thiên tai, bệnh dịch và chiến tranh đều gắn liền với những "khó khăn về dân số".[7]
Hẳn nhiên học thuyết của Malthus không hoàn toàn đúng và không phù hợp với thực tế của hôm nay sau bao nhiêu bể dâu về kinh tế về khoa học và kỹ thuật thế nhưng mối ám ảnh "khó khăn dân số" ấy vẫn tiếp tục hiệu lực, vẫn dai dẳng đeo bám nhân lọai, thậm chí từng ám ảnh cả nhà thơ Tú Xuơng của chúng ta, qua bài thơ "Chúc Tết":
Lẳng lặng mà nghe nó chúc con
Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn.
Phố phường chật hẹp, người đông đúc,
Bồng bế nhau lên nó ở non
Ba năm sau khi Tú Xương lìa đời thì Võ Nguyên Giáp mới chào đời. Và bốn mươi bốn năm sau khi ông Giáp chào đời thì ám ảnh ấy đã phần nào giải quyết bằng chiến thuật thí thịt người tại Điện Biên Phủ cùng muôn vàn những trận đánh tương tự trước đó hay sau đó với những quy mô nhỏ hơn. Nếu chiến tranh, theo cái nhìn của Von Clausewitz, là sự "tiếp nối của chính trị bằng những phương tiện khác" thì, phải chăng, "người hùng chiến tranh" Võ Nguyên Giáp, như một kẻ hoàn toàn thất bại về chính trị, chính là hiện thân của sự "can thiệp của tự nhiên" để giải quyết những "khó khăn về dân số"?
"Tự nhiên", ở đây, nên hiểu là "Trời" và nếu nhìn như thế thì sẽ thấy ngay cái mẫu số chung hay mối quan hệ "biện chứng" giữa đoạn trước và đoạn sau của cuộc đời ông. Cơ hồ "Trời" sinh ông ra là để giải quyết những khó khăn đã ám ảnh Malthus. Đoạn đầu đời xông xáo trên mặt trận, ông "giải quyết khó khăn" bằng cách đẩy những mầm sống đã đạt tuổi trưởng thành vào trận địa theo chiến thuật thí thịt người. Nửa đời sau thầm lặng trong nền chính trị hậu trường, ông "giải quyết khó khăn" với những cái bọc condom, những sợt dây thắt ống dẫn tinh và hay những vòng tránh thai để phong toả, ngăn không cho tinh trùng tiến về với trứng.
Giới hâm mộ xem đó là "thăng trầm" của đời ông Giáp và ca tụng đó là chữ "nhẫn" của bậc thánh nhân, là "phong cách trí thức" của một tướng lĩnh "có văn hoá". Nhưng tính cách của bậc trí thức không chỉ hình thành từ việc đọc sách, việc làu thông kim cổ hay, giữa một đám lãnh tụ công nông đàn gảy tai trâu, "biết đánh cả đàn pinao". Và, ngoài chữ "nhẫn", tiếng Việt còn có thêm từ "khí tiết". Nếu "nhẫn" không có nghĩa là bạc nhược thì "phong cách trí thức" không có nghĩa là phải giữ sự mềm mỏng và thụ động của con người chỉ biết mỗi một việc đọc sách. Mềm mỏng, hay cứng cỏi, người trí thức phải quyết liệt, không lùi bước, không khoan nhượng để bảo vệ lẽ phải và sự thật. Đó là thái độ của Emile Zola khi lên tiếng "Tôi kết tội" để bảo vệ Alfred Dreyfus, viên sĩ quan gốc Do Thái bị cả guồng máy quân sự và chính trị Pháp toa rập để vu khống tội gián điệp. Dreyfus chẳng can dự gì đến Zola và nhà văn này lên tiếng là để bảo vệ lẽ phải, bảo vệ sự thật, nhưng còn ông Giáp? Như một "đại tướng – trí thức – anh hùng", ông đã làm gì để bảo vệ lẽ phải và sự thật khi chính những tướng lĩnh và sĩ quan tâm phúc của mình như Đặng Kim Giang, Lê Liêm hay Đỗ Đức Kiên bị vu khống là gián điệp?
Không chứng tỏ một nỗ lực tối thiểu để bảo vệ lẽ phải và sự thật, để trọn chữ nghĩa tình với những người từng vào sinh ra tử với mình thì có thể nào đạt đến chuẩn mực xử sự của bậc thánh nhân? Những kẻ chỉ trích vin vào điều này để cho rằng ông hèn nhát. Thì đó cũng là một cách nhìn nhưng từ góc độ của Malthus và ý nghĩa "Trời sinh" thì chẳng có gì là anh hùng hay ươn hèn trong cái cuộc đời đó cả. Trời sinh ông để "giải quyết những khó khăn" về dân số và ông phải sử dụng bất cứ vai trò nào có thể sử dụng được để thực hiện sứ mạng đó theo đúng nguyên tắc "Cứu cánh biện minh cho phương tiện" mà Niccolò Machiavelli đã nêu ra trong The Prince (Quân Vương).
Cuốn sách được xem là kinh điển về chính trị thực dụng này được xuất bản năm 1532, năm năm sau khi Machiavelli qua đời. Trong công trình mỏng tang của mình, Machiavelli đã nhấn mạnh rằng, trong chính trị, yếu tố hiệu năng và thực tiễn phải được đặt lên lên trên giá trị đạo đức hay các khái niệm trừu tượng, và để sống còn, những lãnh tụ chính trị phải biết cách học hỏi từ loài dã thú:
"Bậc quân vương phải học hỏi từ bản chất của loài thú để kết hợp sức mạnh của con sư tử với sự tinh ranh của loài cáo. Sư tử không thể tự bảo vệ mình trước các cạm bẫy nhưng cáo thì không thể chống lại loài chó sói. Vì thế, cần phải là cáo để nhận ra những cạm bẫy và là sư tử để dọa chó sói." [8]
Nếu "thiên tài quân sự" là kẻ phải thể hiện sự dũng mãnh của loài "sư tử" thì ông, "Thiên tài quân sự Võ Nguyên Giáp", còn có nhiều lợi thế trên đấu trường chính trị hậu cung khi đã từng là "cáo" và cũng từng là "sói". Trước khi thực sự chống lại thực dân ông đã đóng vai trò chủ chốt trong những cuộc thanh trừng khốc liệt nhắm vào các đảng phái quốc gia chỉ để giành lấy độc quyền chống thực dân, nghĩa là từng giăng bẫy như "cáo". Trước khi là Bộ trưởng Quốc phòng và Tổng Lư lệnh Quân đội, ông đã là Bộ trưởng Nội vụ đầu tiên của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và, trong vai trò ấy, đã ký nghị định để chống lại cái gọi là các tổ chức quốc gia "phản động" tháng Chín năm 1945, nghĩa là đã vồ mồi như "sói".
Đã là "sư tử", đã từng giăng bẫy như "cáo" và từng vồ mồi như "sói", tại sao ông có thể dễ dàng đầu hàng trước những đồng chí chỉ đáng mặt là "cáo" hay "sói" như Lê Duẩn và Lê Đức Thọ?
Cũng chẳng có gì đáng gọi là "nghịch lý" trong mối quan hệ tưởng là mâu thuẫn này cả khi một "đại tướng anh hùng" dễ dàng bỏ rơi đồng đội, dễ dàng nhìn những ý tưởng mà mình tin là có lợi cho đất nước bị vứt bỏ vào sọt rác mà, thậm chí, còn là một sự nhất quán và thông suốt nếu nhìn theo những góc độ nói trên. "Trời" sinh ông thế và, cơ hồ, cả trong cái thời sung mãn nhất về thế chất và trí lực của mình, ông, "Đại tướng Võ Nguyên Giáp", chưa bao giờ cảm thấy có đủ tự tin với "thiên tài", với "thiên mạng" của bậc anh hùng cứu thế trong tầm vóc của một con sư tử của mình. "Trời" không sinh ông để sống trọn vẹn ý nghĩa của một con người huyền thoại. Trời sinh ông ra để giải quyết những "khó khăn về dân số".
"Thiên mạng" của ông là giải quyết những "khó khăn về dân số" còn chế độ toàn trị thì đang lúng túng với "thiên mạng" của mình trước một "dân số khó khăn". Lúng túng vì người dân ngày càng trưởng thành hơn. Lúng túng vì càng ngày càng lộ liễu cái bản chất phản động và thối nát nhiều hơn. Thế là, sau bao nhiêu năm bị bỏ quên, phải tìm quên trong thiền và trong kinh Phật, ông được vực dậy, được công kênh như một huyền thoại chiến tranh. Ông càng rũ xuống, càng vật vờ trong đời sống thực vật trên giường bệnh bao nhiêu, cái chiến dịch phục dựng huyền thoại chiến tranh ấy càng rầm rộ bấy nhiêu.
Nhưng, luôn luôn, cái mà nền toàn trị cần là những huyền thoại chỉ để thờ, thờ sống hay thờ chết. Nó chỉ cần cái bài vị, cái vừng sáng lung linh nhang nến quanh một nhân vật để công chúng kính cẩn gập mình xuống lạy chứ không phải những giá trị thực tiễn mà kẻ đó có thể đóng góp. Hồ Chí Minh cũng vậy mà Võ Nguyên Giáp cũng vậy. Cũng chỉ đơn thuần là hai cái bài vị để cho công chúng lạy, lạy sống hay lạy chết. Thập niên 60, hệ thống quyền lực đó vừa thờ sống Hồ Chí Minh, vừa gạt ông qua một bên. Chỉ cách đây mấy năm thôi, hệ thống đó cũng vừa rầm rộ "lạy sống" ông Giáp, vừa thẳng tay vứt vào sọt rác những "tâm can" mà ông trút cạn khi hệ thống quyền lực tự đâm vào cổ mình bằng cách mời mọc kẻ thù truyền kiếp của dân tộc đến cắm rễ ngay tại vùng đất chiến lược. [9]
Những kẻ hâm mộ ông lấy làm ấm ức vì trong bài điếu văn chính thức đọc trong tang lễ, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã không đề cập về ông như một "anh hùng" mà chỉ gọi suông là "nhà lãnh đạo uy tín." Theo họ ông là "anh hùng dân tộc", là "hồn thiêng sông núi" v.v… và, theo những dòng người rồng rắn đưa tang, những mỹ từ này đã rồng rắn nối đuôi nhau trên các phương tiện truyền thông để tấn công vào suy nghĩ của công chúng, để bám vào suy nghĩ của thế hệ mới lớn. [10]
Xung tụng ông thế nào, là "thiên tài quân sự", là "bậc thánh nhân" v.v… là tùy bởi việc đó quyền, là năng lực nhận thức, là trí tuệ của từng người. Nhưng nếu gọi một nhân vật như thế – "sư tử" không ra "sư tử", "sói" không ra "sói" và "cáo" không ra "cáo" – là "hồn thiêng sông núi" hay "anh hùng dân tộc" thì quả là một sự báng bổ và xúc phạm. Nó báng bổ tổ tiên. Nó xúc phạm đến sông núi thiêng liêng. Nó xúc phạm những anh hùng dân tộc như Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt. Lê Lợi hay Nguyễn Huệ v.v…
Và nó xúc phạm đến cả chúng ta, những người đang mang ơn những người con kiệt xuất của dân tộc ấy, những anh hùng đã thực sự bảo vệ đất nước trước dã tâm nghiền nát và nuốt chửng của kẻ thù truyền kiếp, cái kẻ thù đang vừa kêu ca đòi chia chác thứ "vinh quang" xây trên xác người ở Điện Biên Phủ, vừa vận dụng cả trăm ngàn trò trí trá để bóp nghẹt môi trường và nguồn sống của chúng ta, dồn ép chúng ta vào cảnh kiệt quệ và chết dần chết mòn, cũng với dã tâm nghiền nát và nuốt chửng. [11]
Thuận Văn
Thuận Văn
17.10.2013
Chú thích
[1] Hiện có rất nhiều ý kiến tôn sùng Võ Nguyên Giáp là bậc "thánh nhân", thí dụ như: Nguyễn Như Phong, "Người là bậc Thánh Nhân!"
[2] Tang lễ kết thúc lúc 5 giờ chiều tại Quảng Bình nhưng trước đó, vào buổi trưa, cờ tang ở Hà Nội đã được tháo bỏ để đón Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường.
[3] Có thể kể mấy câu liên quan đến việc Võ Nguyên Giáp nhận chức vụ này:
Năm xưa đại tướng cầm quân
Năm nay đại tướng cầm quần chị em
Hay:
Năm xưa đánh giặc công đồn
Nay về quản lý cái l** chị em
[4] Có rất nhiều tài liệu về việc này, trong đó phần cô đọng nhất là chương viết về Võ Nguyên Giáp trong cuốn Bên thắng cuộc II: Quyền bính, của Huy Đức.
[5] Có thể tham khảo một số bài báo tiêu biểu:
- Hải Chung, "Xóa đói, nghèo ở chiến khu xưa"
- Nguyễn Đăng Tấn, "Mùa Thu cách mạng, về thăm chiến khu xưa"
[6] Câu này liên quan đến việc Tố Hữu trở thành Phó Thủ tướng đặc trách kinh tế: "Nhà thơ làm kinh tế, thống chế đi đặt vòng".
[7] Hẳn nhiên tính toán của Malthus không hoàn toàn phù hợp với thực tế và trong hai thế kỷ sau đó tốc độ tăng dân số vẫn xảy ra mà không bị cản trở bởi nghèo đói tại các nước kỹ nghệ như Âu châu. Một trong những người chỉ trích Malthus kịch liệt nhất là Friedrich Engels – đồng chí kiêm môn đệ của Karl Marx. Theo ông tổ số hai của chủ nghĩa cộng sản thì Malthus đã không thấy được các yếu tố như quá trình tích sản, tích lũy giá trị thặng dư của giai cấp bóc lột, cũng không thấy được vài trò của khoa học v.v…
[8\] Bản tiếng Anh: "Of the animals, a prince should be compelled to choose to emulate the effective points of] the fox and the lion, because the lion cannot defend himself against traps, and the fox cannot defend himself against wolves. Therefore, it is necessary to be a fox to discover the traps, and [to be] a lion to terrify the wolves. Those who rely simply on the [effective points of a] lion do not understand what they are about.
[9] Võ Nguyên Giáp đã ba lần viết thư gởi Bộ Chính trị đề nghị chấm dứt dự án bauxite Tây Nguyên, tuy nhiên lời ông bị gạt qua một bên, thậm chí những kẻ có trách nhiệm đã không thèm trả lời.
[10] Thí dụ các bài báo hay bản tin:
- Thùy Linh, "Đại tướng ơi! Người đã thành hồn thiêng sông núi"
- Hoàng Điệp – Lam Giang – TTXVN, "Quốc tang anh hùng dân tộc Võ Nguyên Giáp".
[11] Có nhiều tài liệu từ phía Trung Quốc nhấn mạnh vao trò của các cố vấn Trung Quốc, thí dụ:
"Hồi kí cố vấn Trung Quốc (3) -Vai trò của Vi Quốc Thanh (Wei Guoqing) qua lời kể của viên thư kí" [Bản dịch của Dương Danh Dy].
Subscribe to:
Posts (Atom)